Nhận Kiều là người tri kỷ, ý hợp tâm đầu, Từ Hải càng yêu mến Kiều, nên xuất tiền chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, ở chung nhau:
Ngỏ lời nói với băng nhân
Tiền trăm lại cứ nguyên phân phát hoàn
Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn
Ðặt giường thất bảo vây màn bát tiên
Trai anh hùng gái thuyền quyên
Phỉ nguyền bói phượng, đẹp duyên cưỡi rồng(Câu 2207 đến 2212)
Tiền trăm lại cứ nguyên phân phát hoàn
Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn
Ðặt giường thất bảo vây màn bát tiên
Trai anh hùng gái thuyền quyên
Phỉ nguyền bói phượng, đẹp duyên cưỡi rồng(Câu 2207 đến 2212)
"Bói phượng", sách "Tả truyện" có chép: Trần Trọng Kính sang nước Tề được vua nước này cho coi việc công chính. Có quan Ðại phu nước Tề muốn gả con cho Trọng Kính. Người vợ lo lắng mới xin chồng để bói một quẻ xem. Bói xong bảo rất tốt. Vì quẻ bói nói: "Phượng hoàng vu phi, hoà minh tương tương" (Phượng hoàng cùng bay cũng cất tiếng hót).
Phượng hoàng là chúa loài chim. Con trống gọi là phượng (hay phụng); con mái gọi là hoàng (hay loan). Ca dao ta có câu:
Ước gì anh được chung phòng
Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan
Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan
Thời xưa, các bậc vua chúa thì dùng kiệu rồng; các bậc hoàng hậu, vương phi thì dùng kiệu phượng. Tức là đòn Kiệu có hình rồng, hình chim phượng, chung quanh vây màn thêu hình chim loan, hoặc trên Kiệu có làm hình chim loan ngậm màn trướng. "Truyện Kiều", khi Từ Hải đánh thắng quân triều, làm chủ một miền, cho quân về rước Kiều, có câu:
Sẵn sàng phượng liễn loan nghi
Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng(câu 2265 và 2266)
Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng(câu 2265 và 2266)
để tả cái nghi vệ cao sang của hàng vương giả.
"Cưỡi rồng", nguyên đời Xuân Thu (772- 479 trước DL), Tần Mục công có người con gái tên Lộng Ngọc sắc đẹp tuyệt vời. Bản chất thông minh, nàng có tài thổi ống sinh rất hay, không học ai mà thành âm điệu, tiếng trong như tiếng hót của chim phượng.
Tần Mục công rất cưng con, xây lầu để nàng ở gọi là Phượng lâu. Trước lầu có kiến trúc một cái đài gọi là Phượng đài. Năm Lộng Ngọc lên tuổi 15, Tần Mục công kén rể. Lộng Ngọc thề: nếu người nào có tài thổi ống sinh hoà được với nàng thì mới nhận làm chồng. Tần Mục công cho người tìm, nhưng không có ai cả.
Một đêm, Lộng Ngọc ngồi trên lầu, vén rèm ngắm cảnh. Bấy giờ trời quang mây tạnh, vầng trăng sáng tỏ như gương, nàng truyền thị mễ đốt lò hương, rồi đem ống sinh ra thổi. Bỗng nghe tiếng tiêu thâm trầm từ đâu hoà lại lúc gần lúc xa... Lộng Ngọc lấy làm lạ, dừng ống sinh lại lắng nghe thì giọng tiêu chỉ còn dư âm văng vẳng. Lộng Ngọc ngẩn ngơ, thao thức canh dài, đoạn đặt ống sinh ở đầu giường rồi nằm ngủ.
Giữa lúc ấy, nàng bỗng thấy trên trời về phía Tây Nam, cửa mở rộng, hào quang ngũ sắc rực rỡ như ban ngày, có một chàng thanh niên mũ lông áo hạc, cưỡi chim phượng từ trên trời sà xuống, đứng trước Phượng đài. Chàng bảo nàng:
- Ta đây là chủ núi Hoạ Sơn. Ngọc Hoàng Thượng Ðế cho ta kết duyên với nàng. Ðến ngày Trung Thu này thì đôi ta gặp nhau. Duyên số đã định như vậy.
- Ta đây là chủ núi Hoạ Sơn. Ngọc Hoàng Thượng Ðế cho ta kết duyên với nàng. Ðến ngày Trung Thu này thì đôi ta gặp nhau. Duyên số đã định như vậy.
Nói xong, chàng đưa tay rút lấy ống ngọc tiêu giắt bên mình, rồi đứng tựa lan can đưa tiêu lên thổi. Con chim phượng đứng bên liền giương cánh ra vừa hót vừa múa. Tiếng Phượng hót cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa hoà nhau như một theo điệu cung thương, nghe rất thâm trầm. Lộng Ngọc mê mẩn tâm thần, hỏi: "Khúc tiêu này là khúc gì?" Chàng thanh niên đáp: "Ðây là khúc Hoạ sơn ngâm". Nàng lại hỏi: "Có học được không?" Chàng đáp: "Khi cả hai kết duyên rồi thì có gì không học được". Ðoạn, chàng bước đến cầm lấy tay nàng... Lộng Ngọc giật mình tỉnh dậy. Sáng lại, nàng thuật điềm chiêm bao cho cha nghe.
Tần Mục công liền sai người cứ theo hình dáng trong mộng mà dò tìm đến núi Hoạ Sơn. Có người nông phu chỉ rằng: từ rằm tháng bảy vừa qua, có một chàng trẻ tuổi lạ mặt đến làm nhà ở đỉnh núi, hằng ngày thường xuống chợ mua rượu uống, chiều lại thổi chơi một khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng lấy làm thích. Người của Tần Mục công mừng rỡ tìm đến, trông thấy chàng thanh niên mũ lông, áo hạc, cốt cách thanh kỳ, liền vái chào hỏi họ tên. Chàng xưng là Tiêu Sử. Người của nhà vua thuật lại sự tình và yêu cầu Tiêu Sử về triều. Sau mấy lần từ chối không được, Tiêu Sử phải vâng theo. Tần Mục công thấy Tiêu Sử dung mạo thanh nhã, lấy làm bằng lòng, cho ngồi bên cạnh, hỏi:
- Ta nghe nhà ngươi có tài thổi ống tiêu tất có tài thổi ống sinh nữa chớ?
Tiêu Sử đáp:
- Tôi chỉ biết thổi ống tiêu, chớ không biết thổi ống sinh.
Vua bảo:
- Ta định tìm một người có tài thổi ống sinh, nay nhà ngươi chỉ biết thổi ống tiêu, vậy không thể làm rễ ta được.
- Ta nghe nhà ngươi có tài thổi ống tiêu tất có tài thổi ống sinh nữa chớ?
Tiêu Sử đáp:
- Tôi chỉ biết thổi ống tiêu, chớ không biết thổi ống sinh.
Vua bảo:
- Ta định tìm một người có tài thổi ống sinh, nay nhà ngươi chỉ biết thổi ống tiêu, vậy không thể làm rễ ta được.
Ðoạn bảo người đưa Tiêu Sử ra.
Lộng Ngọc nghe tin bảo nội thị nói với cha: ống tiêu với ống sinh cùng một loại. Người ta có tài thổi ống tiêu thì sao không bảo dạo chơi một khúc để cho người ta được phô tài. Tần Mục công cho là phải, truyền Tiêu Sử thổi.
Tiêu Sử vâng lời. Vừa dạo qua khúc đầu thì có gió mát phảng phất lẫn mùi hương trầm thoang thoảng. Ðến khúc thứ nhì thì một màng mây mờ ảo dần dần tỏ rạng năm màu rực rỡ bao quanh. Ðến khúc thứ ba thì bỗng có đôi bạch hạc xuất hiện múa lượn trên không; đồng thời có một đôi khổng tước màu sắc lộng lẫy bay đến dẫn theo các giống chim nhẹ nhàng uốn cánh lượn hót lảnh lót... một lúc mới tan. Thật là kỳ diệu, Tần Mục công và cả triều thần lấy làm lạ và cực kỳ khoan khoái, tưởng như một giấc chiêm bao. Nhà vua rất lấy làm bằng lòng. Tiếng tiêu quả có một tác dụng phi thường. Lộng Ngọc đứng bên rèm nhìn thấy rất hân hoan, nói: "Người ấy thật đáng là chồng của ta!"
Tiêu Sử kết duyên cùng Lộng Ngọc, dạy vợ thổi tiêu.
Chung nhau non nửa năm, nhân một đêm trăng sáng vằng vặc, vợ chồng đem tiêu ra thổi. Bỗng thấy một con phượng từ đâu bay đến sà xuống đậu bên tả, và một con rồng phủ phục bên hữu. Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc:
- Ta vốn là tiên ở thượng giới. Ngọc Hoàng thượng đế thấy sử sách ở trần gian nhiều chỗ tán loạn, nên giáng sinh ta xuống họ Tiêu ở nhà Châu để sau định lại. Nhà Châu thấy ta có công về việc sử sách mới gọi ta là Tiêu Sử, đến nay đã hơn 500 năm rồi. Ngọc Hoàng cho ta làm chủ núi Họa Sơn. Vì ta và nàng vốn có tiền duyên, nhờ khúc ngọc tiêu mà được cùng nhau tác hợp, nhưng cũng không nên ở mãi chốn trần gian này. Nay rồng và phượng đã đến đón, vậy chúng ta cùng nhau đi.
Lộng Ngọc định vào từ biệt cha, Tiêu Sử ngăn:
- Không nên. Ðã là thần tiên thì chớ nên vì chút tình riêng mà quyến luyến.
- Ta vốn là tiên ở thượng giới. Ngọc Hoàng thượng đế thấy sử sách ở trần gian nhiều chỗ tán loạn, nên giáng sinh ta xuống họ Tiêu ở nhà Châu để sau định lại. Nhà Châu thấy ta có công về việc sử sách mới gọi ta là Tiêu Sử, đến nay đã hơn 500 năm rồi. Ngọc Hoàng cho ta làm chủ núi Họa Sơn. Vì ta và nàng vốn có tiền duyên, nhờ khúc ngọc tiêu mà được cùng nhau tác hợp, nhưng cũng không nên ở mãi chốn trần gian này. Nay rồng và phượng đã đến đón, vậy chúng ta cùng nhau đi.
Lộng Ngọc định vào từ biệt cha, Tiêu Sử ngăn:
- Không nên. Ðã là thần tiên thì chớ nên vì chút tình riêng mà quyến luyến.
Ðoạn Tiêu Sử cưỡi rồng, Lộng Ngọc cưỡi phượng cùng bay.
"Bói phượng" (hay "sánh phượng"), "cưỡi rồng" đều cùng có nghĩa kén được chồng vợ xứng đáng.
(THEO §IỂN TÍCH TRUYỆN KIỀU - NXB Ðồng Tháp)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét