Tam nguyên Yên Đổ cũng là người có nhiều bài thơ mang ý vị tự trào vào loại hay và tiêu biểu nhất trong văn học dân tộc. Tiến sĩ giấy chính là một trong những tác phẩm như vậy. Bài thơ thể hiện tài năng nghệ thuật của một tác gia trào phúng bậc thầy và mang ý nghĩa thời đại rõ rệt.
Xã hội mà Nguyễn Khuyến sống là xã hội thực
dân nửa phong kiến với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm. Ở đó mọi giá trị đạo
đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới lại mang bộ mặt của kẻ xâm lược.
Ngòi bút thâm trầm mà sâu cay của Nguyễn Khuyến đã chĩa mũi nhọn vào những chỗ
hiểm yếu nhất của cái ung nhọt đó. Trong Tiến sĩ giấy nhà thơ đã đem ra trào
phúng, châm biếm, hạ bệ thần tượng cao nhất của cả một thể chế xã hội đã tồn tại
hàng mấy trăm năm – ông tiến sĩ. Đây là một nhân vật rất quen thuộc của xã hội
phong kiến Việt Nam.
Đạt đến học vị tiến sĩ là niềm vinh quang
không chỉ của bản thân từng con người mà của cả một dòng họ, một địa phương, được
cả xã hội vinh danh, khoác lên mình những ánh hào quang chói lọi. Đó vốn là những
con người có tài năng, chứa đựng trong mình những tri thức của thời đại và tất
cả những tài năng và tri thức đó sẽ được đem ra để phục vụ đất nước, phục vụ xã
hội.
Đã có biết bao ông tiến sĩ trở thành trụ cột của
đất nước, của dân tộc, trở thành nguyên khí quốc gia, được ghi tên tuổi, công
trạng trên bia đá, sử xanh. Nhưng đến thời đại của Nguyễn Khuyến mọi chuyện đã
thay đổi, những giá trị truyền thống đã dần mai một, hoặc đang từng bước đổ vỡ.
Nho học, khoa cử đã xuống cấp, không còn được coi trọng, mọi thứ đã có thể dùng
tiền để mua bán, đổi chác, xuất hiện trong xã hội nhiều kẻ chỉ có hư danh mà
không có thực học. Kẻ có thực tài, chữ nghĩa đầy mình thì học vị tiến sĩ chỉ
còn là cái danh hão, cũng đành khoanh tay ngồi nhìn thời cuộc xoay vần, kiến thức
sách vở cũ rích không còn có ích lợi gì trong một bối cảnh mới. Tất cả những điều
đó đã được Nguyễn Khuyến thể hiện trong bài thơ Tiến sĩ giấy bất hủ của ông.
Nhìn trên ý nghĩa bề mặt văn bản bài thơ có thể
thấy đối tượng mà Tam nguyên Yên Đổ hướng tới để tạo nên tiếng cười là những đồ
chơi dân gian – hình nộm ông tiến sĩ làm bằng giấy dành cho trẻ con trong những
dịp tết trung thu. Làm loại đồ chơi này, các nghệ nhân dân gian muốn khơi dậy ở
trẻ em lòng hiếu học và ý chí phấn đấu để đạt tới vinh quang của nền học vấn thời
đại, cống hiến tài năng cho đời, đem lại niềm vui cho ông bà, cha mẹ, vinh
quang cho dòng họ, tổ tiên. Như vậy, hình ảnh ông nghè tháng Tám là một hình ảnh
mang tính truyền thống rất đẹp. Ở hai câu đề, Nguyễn Khuyến chưa nói thẳng cho
người đọc biết rõ người được ông giới thiệu trong bài thơ là ai. Nhân vật này
có đủ cờ, biển, cân, đai, lọng xanh, ghế chéo đích thị là một vị tiến sĩ oai
phong mới được ghi danh đỗ đầu trên bảng rồng:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Biển là tấm gỗ sơn son thếp vàng có khắc bốn
chữ ân tứ vinh quy. Cẩn là cái khăn. Đai là cái vòng đeo ngang lưng ở ngoài áo
chầu. Hết thảy đều là những thứ cao quý vua ban cho người đỗ tiến sĩ để vinh
quy bái tổ. Nhân vật có vẻ bề ngoài vừa uy nghi, vừa phô trương tự đắc. Tuy
nhiên, điệp từ cũng xuất hiện với mật độ dày đặc và ẩn chứa ý vị mỉa mai bắt đầu
bộc lộ thái độ của tác giả, khiến cho ta thấy có điều gì đó bất thường ở vị tiến
sĩ này. Từ cũng được nhấn mạnh, được đưa lên đầu câu, chỉ sự giống nhau, lặp lại
của hiện tượng, kết hợp với ba từ có kém ai khiến cho con người có học vị cao
này có cái vẻ của sự giả dối, học đòi. Đến hai câu sau mọi việc đã trở nên rõ
ràng hơn. Nhân vật cũng biển cũng cân đai kia hóa ra chỉ là một ông tiến sĩ giấy,
bề ngoài giống hệt như tiến sĩ thật nhưng thực chất bên trong lại rỗng tuếch chẳng
có gì. Cái chất liệu làm nên con người ông đơn giản chỉ là từ mấy mảnh giấy và
một ít son diêm dúa:
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Trong hai câu thực này, nghệ thuật đối được
Nguyễn Khuyến sử dụng hết sức đắc địa. Mảnh giấy đối với thân giáp bảng, nét
son đối với mặt văn khôi. Giáp bảng là bảng công bố kết quả thi cử ngày xưa,
còn được gọi một cách trang trọng là bảng rồng. Thân giáp bảng là người đỗ đạt
cao nhưng thực chất ở đây chỉ được chế tác từ một mảnh giấy vụn. Còn chỉ bằng
vài nét son là có thể tạo nên mặt văn khôi – chỉ người đứng đầu làng văn. Nguyễn
Khuyến đã đặt những sự vật có giá trị khác hẳn nhau vào trong một kết cấu song hành,
đối lập, cho mọi người thấy được việc tạo ra một ông tiến sĩ giả bằng giấy thực
chẳng khó khăn gì, qua đó thể hiện tính chất rẻ mạt, vô nghĩa của danh hiệu tiến
sĩ thực của cái thời cuối phong kiến đầu thực dân này.
Ông nghè tháng Tám có diện mạo bên ngoài giống
hệt như tất cả các ông tiến sĩ thật nhưng cái thực học chỉ nhẹ hều như mảnh giấy
và vết son mà thôi. Nhà thơ đã mượn hình ảnh của ông tiến giấy để nói về ông tiến
sĩ thật đương thời, vạch trần bản chất giả dối của đối tượng bằng cách chỉ ra
mâu thuẫn giữa hình thức bề ngoài lộng lẫy, hào nhoáng được che giấu hết sức
tinh vi và cái thực chất bên trong sáo rỗng, đáng thương hại của nhân vật.
Đối với kẻ theo đòi chuyện học hành thì danh
hiệu tiến sĩ là niềm vinh quang mà muốn đạt được nó thì người quân tử phải
không ngừng tự học hành rèn luyện, có tri thức thông kim bác cổ, có
tài năng xuất chúng để ra giúp dân, giúp nước. Có biết bao người đã theo đòi học
hành chăm chỉ suốt đời mà vẫn không đạt được vinh hạnh đó. Nhưng nay thì đã
khác, cái danh hiệu ấy đã bị người đời coi thường, khinh rẻ:
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Đến hai câu luận này, Nguyễn Khuyến dường như
đã chuyển từ việc mô tả khách quan sang việc đánh giá chủ quan. Chỉ qua hai cụm
từ cảm thán: sao mà nhẹ, ấy mới hời dường như giá trị của ông nghè đã có thể
mang ra cân đo, đong đếm. Ngày xưa kẻ lao tâm khổ tứ để đỗ đạt khoác trên thân
tấm áo vua ban mà cảm thấy trách nhiệm nặng nề, thì nay kẻ mua danh bán tước
khoác lên mình tấm áo ấy mà sao lại thấy nhẹ bẫng. Đơn giản bởi nó là thứ giả.
Không phải ngẫu nhiên khi mô tả một ông tiến sĩ bằng giấy nhưng nhà thơ vẫn phải
luôn gắn vào đó từ thân (thân giáp bảng) hoặc tấm thân (tấm thân xiêm áo),
chính để tạo nên sự so sánh. Nhưng sao những lời lẽ tưởng như chủ quan chế giễu,
mỉa mai trên lại như cũng đang nhuốm những ngậm ngùi, chua chát, cảm thán thời
thế và nhà thơ dường như đang buồn cho chính mình vậy?
Sáu câu thơ trên như một chiếc đòn bẩy để hai
câu thơ cuối buông ra một lời kết luận khiến người đọc bàng hoàng:
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Ở đây, thêm một lần nữa tác giả tiếp tục khắc
họa sâu thêm sự đối lập, tương phản gay gắt giữa cái bên ngoài và bản chất thật
của ông tiến sĩ. Cụm từ ghế chéo lọng xanh vẫn gây cho người đọc ấn tượng về
dáng vẻ oai vệ vốn có của nhân vật có học vấn cao nhất đương thời. Nhưng lần
nâng lên cuối cùng này cũng sẽ là lần Nguyễn Khuyến giáng cho đối tượng trào
phúng đòn hạ bệ chí mạng nhất. Giọng điệu mỉa mai, hài hước của hai chữ bảnh chọe
đã giết chết, đã vạch rõ cái oai phong của vị tiến sĩ kia thực chất chỉ là cái
mẽ giả dối bên ngoài :
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Thật là một hình ảnh thảm hại! Cái kẻ mà ghế
chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe ấy hóa ra là một thứ con rối chịu để kẻ khác giật
dây mà thôi. Cái xã hội bát nháo ấy, cái thứ triều đình bù nhìn toàn những quan
chèo vai nhọ khác chi thằng hề ấy nhất định chỉ có thể sản sinh ra cái thứ hàng
mã này. Mà cái kẻ đứng đằng sau giật dây tất cả lũ rối người ấy từ trên xuống
dưới không ai khác chính là bè lũ thực dân cướp nước. Nguyễn Khuyến đã nhìn thấy
tất cả điều đó và ông kín đáo đưa ra trào phúng đại diện ưu tú nhất nhưng đã trở
nên lỗi thời của cái thể chế đó.
Tam nguyên Yên Đổ đã táo bạo đưa vào trong thơ
mình những hư từ, lời nói khẩu ngữ kiểu như: cũng…cũng, kém ai, sao mà nhẹ, ấy
mới hời, tưởng rằng…, đưa chất văn xuôi, chất thế tục vào trong một thể thơ có
tính ước lệ, tượng trưng cao như thơ Đường luật, khiến cho thể thơ này trở nên
gần gũi hơn, giàu giá trị hiện thực hơn. Nhà thơ phát hiện mâu thuẫn đáng cười ở
đối tượng qua những nét đối lập của sự đồng dạng, giống nhau, (tiến sĩ thật –
tiến sĩ giấy). Đó là những mâu thuẫn, những điều lố bịch gây cười có ngay trong
bản thân đối tượng mà chính nó không hề ý thức được.
Lối trào phúng của ông già Yên Đổ là lối trào
phúng gián tiếp, kín đáo và thâm thúy, ý định trào phúng của người viết không bộc
lộ trên bề mặt văn bản mà chìm sâu sau những hình ảnh và từ ngữ. Muốn hiểu được
tiếng cười của ông, buộc phải qua những bước “giải mã”, suy đoán, bóc tách từng
lớp ngôn từ, ẩn ngữ với những ẩn dụ, phúng dụ… Để nhận ra thực chất của loại tiến
sĩ thật dưới chế độ nửa thực dân phong kiến thì phải có tri thức về thứ đồ chơi
trung thu của trẻ nhỏ – hình nộm ông nghè tháng Tám; hay muốn biết về thân phận
vua hề, quan nhọ dưới chế độ thực dân nô lệ thì phải hiểu nghệ thuật chèo, đặc
biệt là hề chèo (bài thơ Lời vợ người hát phường chèo) v.v…
Rõ ràng, để có được sự thành công khi sử dụng
lối trào phúng này, tác giả phải là người trong cuộc, phải am hiểu đối tượng, nếu
không sẽ tạo nên những cú đánh trượt. Nguyễn Khuyến hiểu đối tượng sâu sắc như
vậy chính vì ông là con đẻ của chế độ khoa cử triều Nguyễn và là người đạt đến
đỉnh cao vinh quang của học vấn đương thời. Nhưng con người ấy đã dần đánh mất niềm tin vào chế độ, vào triều đình,
vào vốn học vấn của mình trước thực tế lịch sử, khi mà tất cả vũ khí vật chất
và tinh thần, tất cả thế ứng xử truyền thống tồn tại hàng ngàn năm của dân tộc
đã bị kẻ thù mới bẻ gãy một cách dễ dàng.
Ông cũng cảm thấy nghi ngờ cả tài năng, sức lực
của lớp người đại diện cho tinh hoa của chế độ ấy và nghi ngờ chính bản thân
mình. Bởi trong số những ông nghè tháng Tám hết thời ấy có cả bản thân Nguyễn
Khuyến nhưng tất nhiên ông Tam nguyên phủ Yên Đổ hoàn toàn khác với những kẻ hữu
danh vô thực đương thời. Điều ấn tượng và độc đáo ở đây là cái hài hước ấy xuất
phát từ trong lòng đối tượng bị phê phán. Sự phủ định rõ ràng còn có thêm màu sắc
tự phủ định. Tính bi hài của hình tượng văn học nhờ vậy càng trở nên sâu sắc gấp
bội.
Tính tự trào của bài thơ cũng hé mở cho ta nhận
thấy, nghe thấy, chứng kiến một cuộc đối thoại và một cuộc tự đối thoại của nhà
thơ với chính mình – tiếng nói phản tỉnh của một người trong cuộc. Đó cũng
chính là tiếng nói phản chính thống, một hành vi tưởng như là nói ngược nhưng
thực chất lại phản ánh một cách chính xác nhất bản chất của xã hội và sự tha
hóa của lớp người đại diện cho tinh hoa của thể chế đương thời.
Tiến sĩ giấy là biểu hiện rõ nhất của tiếng
nói tự trào.Nguyễn Khuyến đã lấy việc khách thể hóa bản thân để bộc lộ tâm trạng
mình. Tiếng nói lưỡng phân đa chiều, vừa hướng nội, vừa hướng ngoại này chỉ có
được khi con người tự ý thức được tình trạng bi hài của mình trước thực tế lịch
sử, nó bộc lộ những day dứt, trăn trở, những mâu thuẫn trong chính bản thân nhà
thơ, bỏ xa kiểu con người đơn nhất trong văn chương trung đại. Trong văn học
trào phúng, phê phán và phủ định điều này cũng chính là để khẳng định, bảo
vệ một chân lí nào đó. Nguyễn Khuyến châm biếm, đả phá cái giả Nho, cái vô dụng,
chính là để khẳng định cái chân Nho, khẳng định những giá trị truyền thống của
dân tộc, khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của riêng mình để tự phản tỉnh trước
thực tế của sự khủng hoảng các giá trị đạo đức đương thời.
Mỹ học về cái hài dường như không bao quát hết
những sắc thái đa diện của thi tài Nguyễn Khuyến . Trong Tiến sĩ giấy nói riêng
và trong thơ tự trào của ông nói chung, cái hài thường bị cái bi lấn át. Điều
đó cũng khiến cho tính trữ tình, sự kết hợp giữa hai phẩm chất trào phúng và trữ
tình trong các bài thơ trào phúng của ông trở nên nhuần nhuyễn, ý thơ như còn đọng
mãi trong lòng người đọc. Vì vậy, Nguyễn Khuyến tự trào, tự giễu cợt mình, về mặt
khách quan, cũng chính là đang trào phúng cả một tầng lớp đại diện cho một xã hội
thối nát, một nền học vấn đã hết thời, và một giai cấp đang từng bước chấm dứt
vai trò lịch sử. Danh vị tiến sĩ nay đã trở thành trò hề, trở thành thứ đồ chơi
để dứ thằng cu, mà mỗi lần nhìn thấy thứ hình nộm ấy, vị Tam nguyên lừng lẫy một
thời, vị quan đại thần của triều đại đương thời lại cứ tưởng như người ta đang
đem mình ra để bỡn cợt:
Rõ chú hoa man khéo vẽ trò
Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.
(Vịnh tiến sĩ giấy, I)
Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
(Tự trào)
Có lẽ Nguyễn Khuyến là người trí thức đầu tiên
trong thời đại ông có được cái nhìn tỉnh táo như vậy. Không phải người trí thức
nào trong cơn phong ba của lịch sử cũng nhận ra được những hạn chế tất yếu của
giai cấp mình, thừa nhận sự bất lực của nó trước thực tế lịch sử. Nguyễn Khuyến
lớn chính vì ông đã sớm nhận ra tất cả những điều đó.
Rõ ràng, bên cạnh màu sắc bi, hài, tự trào thấm
đẫm chất trữ tình, thơ trào phúng Nguyễn Khuyến còn mang tính triết lý sâu sắc
về nhiều vấn đề xã hội, trong đó nổi bật là triết lý về thân phận của người trí
thức, của lớp nho sĩ cuối mùa tầng lớp mang trong số phận của mình bi kịch có
tính chất nhân loại ở buổi giao thời dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Nguyễn
Khuyến đã tự phản tỉnh mình, tự ý thức được thân phận con người thừa của mình,
thấy mình là một hủ nho trong thời buổi mới. Mặc cảm con người thừa, con người
vô tích sự phải đến Nguyễn Khuyến và đặc biệt Tú Xương sau này mới thật sự
rõ nét. Tuy nhiên về chủ đề này giữa hai nhà thơ có những khác biệt cơ bản. Tú
Xương cũng có bài thơ Tiến sĩ giấy nhưng hình tượng nhân vật của ông không có lớp
nghĩa tự trào, không có màu sắc bi kịch và ít chi tiết khắc họa mang tính điển
hình. Con người không có duyên phận với khoa cử này đứng ở thế đối lập với những
kẻ mang danh khoa bảng mà không phải là người trong cuộc, người ở trên nhìn xuống
như Nguyễn Khuyến. Vì vậy ông Tú có thể chửi thẳng mà không e dè và cũng không
hề có chút chua xót cho đối tượng bị trào phúng :
Ông đỗ khoa nào, ở xứ nào ?
Thế mà hoa hốt với trâm bào ?
Mỗi năm ngày tết trung thu đến
Tôi vẫn quen ông chẳng muốn chào.
Có thể thấy, hình tượng Tiến sĩ giấy của Nguyễn
Khuyến mang tính đa nghĩa, giàu liên tưởng và cũng là hình tượng có tính điển
hình và tính khái quát cao độ hơn. Điểm chung giữa hai tác giả chính là tấm
lòng ưu ái suốt đời trăn trở vì dân, vì nước được thể hiện phong phú qua những
bài thơ giàu giá trị nghệ thuật.
Tiến sĩ giấy không chỉ là thành tựu nghệ thuật
tiêu biểu của thơ Nguyễn Khuyến mà còn là một trong những hình tượng điển hình
có giá trị nhất của văn học trào phúng Việt Nam ở giai đoạn đỉnh cao. Tiến sĩ
giấy cũng không chỉ có ý nghĩa nhất thời, chỉ diễn ra trong thời đại của Tam
nguyên Yên Đổ mà còn là hình tượng nghệ thuật mang giá trị phổ biến, chỉ những
kẻ bề ngoài mang danh của người có học thức cao nhất nhưng thực chất bên trong
lại không tương xứng với cái nhãn mà mình đang mang. Những nhân vật đó thời nào
cũng có, đặc biệt trong những giai đoạn mà những giá trị thật giả lẫn lộn, đồng
tiền lên ngôi, thời kỳ mà con người được định giá bằng đủ thứ danh hiệu hình thức
thì loại người đó càng nhiều. Họ có thể là những kẻ mua danh bán tước, những tiến
sĩ giả, nhưng họ cũng có thể là những người đi học thật nhưng tài năng kém cỏi
và Nguyễn Khuyến chính là người đầu tiên đã tổng kết hiện tượng xã hội đó thành
một hình tượng nghệ thuật điển hình tượng trưng cho mọi thời đại. Điều đó đã khẳng
định giá trị sáng tạo và sức sống bền vững muôn đời của thơ ca Tam nguyên Yên Đổ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét