Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2017

Truyện truyền kỳ với lịch sử, tín ngưỡng và con người

Truyện truyền kỳ là một thể loại văn xuôi tự sự độc đáo của văn học Việt Nam trung đại. Với đặc điểm dùng cái kỳ ảo làm phương thức chuyển tải nội dung, truyện truyền kỳ không chỉ phản ánh hiện thực, gửi gắm những tâm tư, tình cảm của tác giả một cách hình tượng mà ở đó còn có cả một thế giới tín ngưỡng tôn giáo và giá trị cũng như số phận con người. Trong tiền trình phát triển từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX của mình, nó đã được tác các tác giả làm mới cả về nội dung lẫn hình thức. Vì vậy, trong phạm vi giới hạn, bài viết không thể đi sâu vào từng tác phẩm truyền kỳ mà chỉ nghiên cứu giá trị của truyện truyền kỳ theo tiến trình phát triển gắn với tôn giáo và con người nói chung, số phận con người nói riêng . Đồng thời, bài viết cũng sẽ chỉ ra sự thay đổi quan niệm tư duy con người qua các thời kỳ.
1.     Truyện truyền kỳ - Nguồn gốc xa nhưng đời sống gần…
Bị giặc phương Bắc đô hộ hơn một nghìn năm, đây là một trong những lí do khiến văn học trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học cổ điển Trung Quốc từ chữ viết, thể loại văn học, đề tài, thi liệu, điển tích điển cố cho đến cách thể hiện, nội dung ý nghĩa, tư tưởng tác gia và các thể loại văn học cổ. Truyện truyền kỳ của Việt Nam cũng vậy, nó có nguồn gốc từ thể truyền kỳ trong văn học cổ của Trung Quốc. Đây là một thể loại văn xuôi tự sự phát triển từ thể loại truyện cổ dân gian nên trong thực đó còn có chất kỳ ảo mà các tác gia văn học viết đã tiếp nhận và nâng cao thành một loại văn xuôi tự sự ngắn.

Truyện truyền kỳ tồn tại trong một thời gian dài nhưng phát triển mạnh mẽ nhất là ở thời Đường (618 – 907). Theo chân lịch sử, truyện truyền kỳ đời Đường đã sử dụng nhiều chất liệu từ truyện chí quái thời Lục nhưng đã được biến tấu về nhiều mặt. Truyện truyền kỳ sử dụng những mô tip kỳ quái, hoang đường nhưng được lồng trong cố truyện sinh hoạt thế sự hoặc đời tư. Bởi vậy, nó mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, thể hiện những nhân tình thế thái của đời sống, thái độ nhân sinh của nhà nghệ sĩ ẩn hiện trong cách hành đạp, ẩn dật, tín ngưỡng tôn giáo. Ở thời này có những tác phẩm, tác giả tiêu biểu như Chẩm trung ký của Thẩm Ký Tế, Nam Kha thái thú truyện của Lý Công Tá, Lý Oa truyện của Bạch Hành Giản, Oanh Oanh truyện của Nguyên Chẩn…, và đặc biệt, hai chữ truyền kỳ chính thức được đặt tên cho sáng tác của Bùi Hình. Các văn nhân Trung Hoa đã sáng tạo nghệ thuật có ý thức với sự xuất hiện của thể loại truyền kỳ. Truyền kỳ đời Đường ảnh hưởng rất lớn đến văn chương đời sau. Trong đó, hai tác phẩm nổi bật về thành tựu ở thời Minh – Thanh phải kể đến Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (1341 – 1427), Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640 – 1715) . Tiễn đăng tân thoại là tác phẩm có ảnh hưởng nhiều đến thể loại truyền kỳ Việt Nam nói chung và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ nói riêng (tác phẩm này sẽ được phân tích sau trong quá trình phát triển).
Văn học trung đại Việt Nam có khá ít tác phẩm mà tác giả gán tên truyền kỳ cho sáng tác của mình, nhưng nếu xét theo đặc trưng của thể truyền kỳ là bao giờ cũng có một mô tip kỳ quái, hoang đường thì lại rất phong phú. Có thể kể đến Việt điện u linh  của Lý Tế Xuyên, Thiền uyển tập anh (chưa rõ tác giả), Lĩnh Nam chích quái lục của Trần Thế Pháp, Thánh Tông di thảo (tương truyền của Lê Thánh Tông), Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Công dư tiệp ký củ Vũ Phương Đề… Truyện truyền kỳ Việt Nam chịu ảnh hưởng truyện truyền kỳ Trung Quốc về bút pháp và thể loại nhưng đậm đà tính dân tộc, giàu tính sáng tạo.
Như vậy, truyện truyền kỳ phản ánh hiện thực qua cái kỳ lạ. Kết cấu của mỗi truyện đều có sự thống nhất hai yếu tố kỳ và thực dù vai trò của mỗi yếu tố có sự đậm nhạt khác nhau trong mỗi tác phẩm, mỗi giai đoạn cụ thể của sự phát triển thể loại. Chính sự thống nhất này làm cho truyện truyền kỳ gần gũi với đời sống hiện thực, giàu giá trị nhân văn.
2.     Truyền kỳ - bóng dáng lịch sử, tôn giáo và con người
Theo nhiều nhà nghiên cứu, mầm mống của truyện truyền kỳ đã có ở Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên. Tác phẩm kể về công tích 27 vị thần được thờ trong các đền, miếu thời Lý – Trần, có chức năng lễ nghi tôn giáo. Ở đây, không khí kỳ ảo bao trùm lên cuộc đời nhân vật cả khi sống lẫn khi đã khuất. Chẳng hạn, truyện Bố cái Đại vương: Vương có sức khỏe, đánh được hổ, vật được trâu. Sau khi mất, Vương hay hiển linh giúp Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Dân các làng thường nghe tiếng xe, ngựa đi ầm ầm trên các nóc nhà hoặc trên các cây cổ thụ, trông lên thấy trong đám mây năm sắc có cờ, kiệu rực rỡ, lại có tiếng đàn sáo văng vẳng trên không [1, 13-14]. Ở đây cái “kỳ” xuất hiện rõ rệt. Nó gần gũi với cái siêu nhiên, kỳ vĩ của thần thoại, cổ tích và có quan hệ với tín ngưỡng dân gian, với niềm tin dân chúng về chuyện linh hồn con người tiếp tục tồn tại sau khi chết và có thể trở về giúp những người còn sống. Bút pháp xây dựng nhân vật là bút pháp kì vĩ của truyện thần thoại.
Vào khoảng giữa thế kỉ XIV, Thiền uyển tập anh (chưa rõ tác giả) ra đời, kế thừa chất “kỳ” của Việt điện u linh để nói hành trang của 68 vị thiền sư. Tác giả đã xoáy ngòi bút của mình vào việc lạ hóa quá trình sinh hạ, tụ họp và quy tịch của các thiền sư như viết viết về nguồn gốc ra đời của thiền sư Ngô Ẩn. Mẹ ông là một thiếu nữ dệt vải họ Cù, sống ở bìa rừng “một hôm bà đang ngồi dệt vải có con khỉ lớn từ trong rừng chạy ra ôm lấy lưng bà suốt ngày mới bỏ đi. Sau đó bà biết mình có mang[2,66]. Không những thế, Thiền uyển tập anh còn nhiều tình tiết mang màu sắc kỳ ảo rằng sự ra đời của các vị thiền sư gắn với hiện tượng lạ, điềm lạ, giấc mơ lạ; cuộc đời và sự viên tịch cũng đầy khác lạ sơ với người thường. Đây là sự kế thừa lớn nhất từ truyện cổ tích Việt Nam. Cái lạ của nhân vật khiến cho yếu tố truyền kỳ của Thiền uyển tập anh nổi bật hơn so với Việt điện u linh dù đây là những tác phẩm chức năng tôn giáo.
Việt điện u linh, Thiền uyển tập anh cùng một số tác phẩm đương thời đều là những tác phẩm chức năng tôn giáo. Một mặt, tác giả đã bám sát lịch sử, lấy nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử làm đối tượng phản ánh nên giá trị văn học chưa cao. Mặt khác, họ cũng thần thánh hóa nhân vật bằng mọi cách để tôn vinh công đức và tài trí, sức mạnh và sự diệu kỳ của nhân vật. Sự thần thánh hóa nhân vật đã làm nảy sinh các mô tip về cái kỳ lạ, cơ sở cho loại hình truyện ở các giai đoạn tiếp theo nhất là truyện truyền kỳ. Như vậy, đến cuối thế kỉ XIV những tiền đề văn học cho sự phát triển thể loại truyền kỳ đã xuất hiện.
Thế kỷ XV – XVI được coi là thế kỷ của truyện truyền kỳ với sự xuất hiện của Thánh Tông di thảo (tương truyền của Lê Thánh Tông) và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Nếu như Thánh Tông di thảo là bước đánh dấu sự chuyển biến đột khởi của văn xuôi tự sự Việt Nam, con người trở thành đối tượng phản ánh, còn thánh thần, tiên phật bị hạ xuống hàng thứ dưới con người; thì Truyền kỳ mạn lục được xem như đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam.
Đến với Thánh Tông di thảo ngòi bút thực lục của thời trước đã không còn nữa mà thay vào đó là sự sáng tạo của nhà văn được thể hiện rõ nét. Ở tập truyện này, những câu chuyện dân gian được kế thừa, biến đổi chút ít, sắp xếp lại và những cốt truyện lưu truyền trong dân gian chỉ còn là những chất liệu nhằm phục vụ cho mục đích tư tưởng của tác giả. Truyện Ngọc nữ về tay chân chủ vốn lấy cốt truyện từ Sơn Tinh, Thủy Tinh. Nhưng nếu Sơn Tinh, Thủy Tinh chỉ giải thích hiện tượng lũ lụt thì Ngọc nữ về tay chân chủ khẳng định sức mạnh của con người, đề cao nhân quyền. Chưa bao giờ con người hiện ra với uy quyền tuyệt đối như thế. “Núi có thể bạt đi, gò có thể san bằng, núi lớn có thể bắt lui, sông to có thể cắt đứt [3,107]. Thời điểm này, chất liệu cuộc sống cũng thâm nhập vào tác phẩm với đề tài từ cuộc kháng chiến cuống quân Minh hoặc từ hiện thực cuộc sống đương thời. Cái mới của tác phẩm này là tác giả trước đây chỉ viết về hành trạng của các nhân vật mà cuộc đời gắn với những sự kiện lớn lao trong lịch sử thì Thánh Tông di thảo còn chú ý đến những sự kiện và con người bình thường, đặc biệt là người phụ nữ. Cái nhìn nhân văn len lỏi xuất hiện. Vì thế, có thể nói Lê Thánh Tông đã đưa truyện ngắn truyền kỳ gần với đời thường hơn. Cái kỳ ảo chỉ sử dụng như một phương tiện nghệ thuật để chuyển tải nội dung, trở thành ý thức nghệ thuật chứ không còn mang tính tự phát, chịu ảnh hưởng của các siêu nhiên kỳ vĩ của thần thoại cổ tích thời kỳ đầu. Đến đây, truyện truyền kỳ đã qua một chặng đường dài. Nhà văn trở thành người sáng tạo chứ không còn đóng vai trò ghi chép. Cái kỳ không còn là mục đích mà trở thành một phương tiện nghệ thuật để chuyển tải nội dung.
Ra đời vào khoảng nửa thế kỳ XVI, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là đỉnh cao của truyện trruyền kỳ Việt Nam. Lời đề tựa do Hà Thiện Hán viết có đoạn nhận xét: “Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát[4,204]. Dễ thấy rằng Truyền kỳ mạn lục chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại  nhưng Nguyễn Dữ không sao chép một cách máy móc mà bằng vốn sống, tài nghệ của mình dường như ông đã tháo rời toàn bộ hình hài của Tân thoại rồi lắp ghép không chút đơn giản cho nó tái sinh khiến cho truyện nào cũng thuộc về ông, thuộc về Việt Nam[5,359]. Trong hoàn cảnh đất nước lâm vào thảm họa, loạn li, vấn đề số phận con người bước đầu được đặt ra. Là một trí thức ưu thời mẫn thế, Nguyễn Dữ không thể làm ngơ trước nỗi đau, bất hạnh của những kiếp người vô tội, nhất là người phụ nữ. Thời thế và nhu cầu phản ánh của văn học đã hướng ngòi bút của Nguyễn Dữ vào những vấn đề xã hội đặt ra.
Theo khảo sát, Truyền kỳ mạn lục có 11/20 truyện viết về đề tài phụ nữ - nạn nhân đau khổ trong xã hội.  Về phương diện nghệ thuật, Nguyễn Dữ sử dụng yếu tố kỳ so với tác giả Lê Thánh Tông ở mức độ cao hơn, những vấn đề ông phản ánh gần gũi hơn với con người[6,29]. Trong bài nghiên cứu Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trong truyện ngắn truyền kỳ Việt Nam, Vũ Thanh đã so sánh Duyên lạ xứ Hoa của Lê Thánh Tông với Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ để rồi rút ra kết luận: cả hai đều sử dụng mô tip để nhân vật chính lạc vào một thế giới khác và kết hôn với “người thần”, nhưng Lê Thánh Tông còn giữ lại nhiều tình tiết huyền ảo của cốt truyện cổ tích thần kỳ và hương vị tình yêu lãng mạn của các vị thần thì truyện của Nguyễn Dữ tràn đầy những vấn đề xã hội với mâu thuẫn gay gắt. Không những thế, nhân vật của Lê Thánh Tông dù sao vẫn còn xa lạ với cuộc sống đời thường còn nhân vật của Nguyễn Dữ dù kết duyên với “người tiên” vẫn không nguôi nhớ dương gian.
Truyền kỳ mạn lục  là một bước tiến vượt bậc trong sự phát triển của thể loại. Nguyễn Dữ chính là người đã hoàn tất quá trình đưa văn xuôi tự sự thoát khỏi văn học mang tính chức năng nói chung và văn học chứng năng tôn giáo thời kỳ trước nói riêng, đem nó lại gần với con người. Ông đưa văn học trở về với hiện thực cuộc sống hiện thực để phản ánh những mâu thuẫn gay gắt của xã hội đương thời. Khác với các nhà văn trước, Nguyễn Dữ sáng tạo nên nhân vật và cốt truyện, sử dụng cái kỳ như một thủ pháp nghệ thuật để chuyển tải nội dung. Cái kỳ đó có sự thống nhất với cái thực, cái thực đã trở thành đối tượng, mục tiêu phản ánh của nhà văn và cái kỳ là hạt nhân tự sự được hư cấu bởi tác giả.  Do đó, sẽ không quá nếu nói Truyền kỳ mạn lục đưa người đọc vào một thế giới vừa thực, vừa hư, có thế giới thần tiên, ma quỷ nhưng cũng có cái hiện thực thường ngày, xứng đáng là đỉnh cao của thể loại.
Đến thế kỷ XVII, văn xuôi tự sự nói chung và truyện truyền kỳ nói riêng dường như vắng bóng trên văn đàn dân tộc. Thời điểm này ra đời ba loại văn học mới: truyện Nôm, diễn ca lịch sử, khúc vịnh. Tuy nhiên, chất truyền kỳ vẫn ẩn hiện đâu đó trong các tác phẩm sau này với lịch sử, tín ngưỡng và con người.
3.     Giá trị hiện thực và giá trị nhân văn trong truyện truyền kỳ
Giá trị hiện thực của truyện truyền kỳ thể hiện ở sự vận động, phát triển của truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam gắn với xã hội phong kiến, nằm trong khuôn khổ của ý thức hệ phong kiến. Sự hưng thịnh, suy vong của xã hội đã phản chiếu vào tác phẩm, làm nên những giá trị hiện thực.
Việt điện u linh ra đời trong khung cảnh lớn của buổi đầu kỷ nguyên Đại Việt với những định hướng tư tưởng của thực tiễn xây dựng và bảo vệ quốc gia phong kiến đôc lập. Tác phẩm tập trung ngợi ca nhà nước phong kiến với các bậc vua sáng tôi hiền, đặc biệt tập trung ca ngợi quyền lực vua chúa. Phần lớn các vị thần trong Việt điện u linh vốn xuất phát từ các bậc vua quan triều đình, được triều đình sắc phong và đưa vào thờ tự các miếu. Các vị ấy thường trở về phù trợ cho người còn sống đánh giặc cứu nước.  Bằng cách đó, nó vừa đề cao quyền lực của triều đình, vừa góp phần củng cố mối thống nhất của non sông đất nước.
Sang Thánh Tông di thảo cũng dành nhiều truyện để ca ngợi sự thịnh trị của triều đình phong kiến, sự anh minh sáng suốt của vua Lê Thánh Tông. Trong Bài ký một giấc mộng, nhà vua nói: Trẫm lên nhờ oai linh của tổ tông, dưới dựa vào bầy tôi giúp sức, sinh, sát, thưởng, phạt đều nắm trong tay. Ai uất ức đau khổ, ta có thể giải đi được. Ai công đức ngầm kín, ta có thể nêu lên được[3,168].
Mãi cho đến thời Nguyễn Dữ, cái nhìn của nhà văn đã chuyển sang một chiến tuyến mới. Với tác phẩm của mình, Nguyễn Dữ đã vạch trần bộ mặt xấu xa của bọn vua chúa, quan lại, thể hiện niềm thông cảm sâu sắc với nỗi khổ của nhân dân, đề cao thái độ ẩn dật và khí tiết của kẻ sĩ. Đây là một tác phẩm giàu giá trị hiện thực. Với dung lượng cho phép, bài viết không thể phân tích hết toàn bộ giá trị hiện thực của nó.
Giá trị nhân văn của truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam
Bên cạnh giá trị hiện thực, truyện truyền kỳ còn chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc gắn liền với lịch sử và con người. Ở thời kỳ chế độ phong kiến đang lên, tác phẩm Việt điện u linh và một số sự tích trong Thiền uyển tập anh đã thể hiện niềm tự hào của nhân dân ta về tổ tiên, về anh hùng lịch sử, về non sông đất nước; khẳng định truyền thống địa linh nhân kiệt cũng như những phong tục tốt đẹp của cha ông xưa. Chẳng hạn, Vũ Quỳnh cũng tự hào về xứ sở của mình mà viết: Quế Hải tuy ở cõi Lĩnh Nam nhưng núi non kỳ lạ, đất đai thiêng liêng, nhân dân anh hào, truyện tích thần kỳ thường vẫn có. Song song với niềm tự hào dân tộc là sự khẳng định vai trò, sức mạnh của con người. Với Thánh Tông di thảo, truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam đã đạt đến một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc. Lần đâu tiên trong văn chương, thánh thần bị đẩy xuống hàng thứ yếu và mất thiêng trước khả năng vô tận của con người.
Nguyễn Dữ cũng lấy con người làm đối tượng khám phá, phản ánh nhưng Truyền kỳ mạn lục của ông lại đề cập đến những khát vọng của con người cá nhân; khát vọng về tình yêu, hạnh phúc gia đình. Nhà văn đã miêu tả những mối tình thơ mộng, thậm chí mang màu sắc nhục cảm như mối tình giữa Hà Nhân với hai nàng Đào, Liễu (Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây), giữa Đào thị và sư Vô Kỷ (Chuyện nghiệp oan của Đào thị)…
Nhìn lại quá trình phát triển của truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam đã có những thay đổi rõ rệt. Đến thời điểm này, có thể thấy rằng, nét độc đáo của chủ nghãi nhân văn trong truyện truyền lỳ là đã đi sâu vào số phận con người của người phụ nữ. Các nhân vật nữ trong Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục và cả Truyền kỳ tân phả  sau này đều đẹp người đẹp nết nhưng cuộc đời cay đắng bất hạnh. Những con người may mắn được hưởng hạnh phúc vô cùng hiếm hoi. Viết về người phụ nữ, các nhà văn đã đặt ra vấn đề bức thiết, đó là quyền được sống, được yêu, được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ. Điều này đã mở đầu cho khuynh hướng viết về người phụ nữ của văn học ở giai đoạn sau với Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du…
Tài liệu tham khảo chính:
1.     Nguyễn Duy Hinh (1986), Vấn đề Từ Thức, tạp chí văn học trang 102-106.
2.     Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại, tập 2, ký, NXB Giáo dục Hà Nội.
3.     Nguyễn Bích Ngô dịch (1993), Thánh Tông di thảo, NXB Văn học Hà Nội.
4.     Cù Hựu, Nguyễn Dữ (1999), Tiễn đăng tân thoại – Truyền kỳ mạn lục.
5.     Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, NXB Văn học Hà Nội.

6.     Vũ Thanh (1994), Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trong truyện ngắn truyền kỳ Việt Nam, tạp chí văn học trang 25 – 30.




* Bài đăng trên tạp chí Văn hóa văn nghệ phật giáo số 267 ngày 15-02-2017

0 nhận xét:

Đăng nhận xét