Chủ Nhật, 5 tháng 3, 2017

Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh



Tưởng nhớ Thuý Kiều, Kim Trọng thẫn thờ đi tìm chỗ ở của Kiều. Nhìn cảnh vật, bóng người đâu chẳng thấy, lòng mang một thất vọng nặng nề:
"Thẳm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh"
(Câu 267 đến 268)

            Và, khi Kim Trọng may mắn gặp Kiều tại vườn hoa, chàng tỏ tình thương nhớ, yêu đương thì Kiều:
"Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong
                    Dầu khi lá thắm chỉ hồng
                Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
                    Nặng lòng xót liễu vì hoa
            Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa"
(Câu 331 đến 336)
            "Lá thắm" là lá đỏ, do chữ "hồng diệp"
            Ngày xưa, triều vua nào cũng vậy, nhiều giai nhân tuyệt sắc trong nước bị tuyển vào cung làm cung hầu vua. Họ có đi mà chẳng có về, suốt đời chịu cảnh lạnh lùng, buồn duyên tủi phận gối lẻ chiếc bóng trong thâm cung. Chỉ có khi nào bị sa thải vì hết đẹp, vì già...
            Ðời Ðường (618- 907), triều Hy tông, có nàng cung nữ tên Hàn Thuý Tần cũng như bao cung nữ khác sống cô lạnh trong thâm cung. Buồn tủi cho số kiếp của mình, nàng thường nhặt những chiếc lá đỏ rồi đề thơ trên lá, thả xuống ngòi nước như mong nước trôi xuôi cuốn đi nỗi tâm sự u uất của mình:
"Lưu thuỷ hà thái cấp
Cung trung tân nhiệt nhân
Ân cần tạ hồng diệp
Hảo khư đảo nhân gian"
    Tạm dịch:
"Nước chảy sao mà vội
Cung sâu suốt buổi nhàn
Ân cần nhờ lá thắm
Trôi đến tận nhân gian"
            Chiếc lá chở bài thơ theo dòng nước chảy xuôi ra ngoài vòng cấm luỹ. Lúc bấy giờ có người môn khách của quan Tể tướng Hàn Vinh tên Vu Hựu vốn người phong lưu tài tử, thơ hay chữ tốt, chỉ hiềm nỗi vận chưa đạt nên đành chịu sống nhờ nơi quan Tể tướng họ Hàn. Ðương thơ thẩn ngắm dòng nước chảy, Vu Hựu bỗng nhìn thấy chiếc lá có bài thơ, lấy làm lạ liền vớt lên xem. Cảm tình chan chứa với người gởi thơ lạ mặt, chàng cũng nhặt một chiếc lá, viết một bài thơ vào đấy, đợi dòng nước xuôi mới thả lá xuống cho trôi trở vào cung:
"Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi
Thượng đương cung nữ đoạn trường thì
Tư quân bất cấm đông lưu thuỷ
Diệp thượng đề thi ký giữ thuỳ"
    Phan Như Xuyên dịch:
"Nghe oanh thấy liễu chạnh lòng thương
Thương kẻ trong cung lúc đoạn trường
Chiếc lá đề thơ trôi mặt nước
Gởi cho ai đó nói không tường"
            Nàng cung nữ họ Hàn thường ngồi thơ thẩn nhìn dòng nước chảy, bỗng bắt được chiếc lá chở bài thơ của người không quen biết, vừa mừng, vừa lấy làm lạ, liền đem cất vào rương son phấn.
            Non mười năm sau, vua mới lên ngôi, sa thải một số cung nữ cũ, trong đó có Hàn Thuý Tần. Nàng đến ở tạm dinh quan Tể tướng họ Hàn là chú họ của nàng, để chờ chuyến thuyền trở về quê nhà. Gặp Vu Hựu, cả hai trò chuyện hợp ý tâm đầu. Tể tướng họ Hàn thấy cả hai xứng lứa vừa đôi nên làm mối cho kết thành duyên giai ngẫu.
            Ðêm tân hôn, Hựu chợt mở rương son phấn của vợ, thấy chiếc lá của mình ngày xưa, chàng cũng đem chiếc lá của mình vớt được, đem cho vợ xem. Cả hai lấy làm lạ, đoạn nhìn nhau âu yếm mĩm cười. Thì ra cả hai giữ hai chiếc lá của nhau, cho là duyên trời định.
            Cảm xúc cảm tình, cổ thi có bài- nhưng có sách lại cho bài sau này do Hàn Thuý Tần làm ra:
"Nhứt liên giai cú tuỳ lưu thuỷ
Thập tải ưu tư mãn tố hoài
Kim nhựt khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng diệp thị lương môi"
    Nghĩa:
"Một đôi thi cú theo dòng nước
Mười mấy năm qua nhớ dẫy đầy
Mừng bấy ngày nay loan sánh phượng
Cũng nhờ lá thắm khéo làm mai"
(Bản dịch của Vô Danh)
            "Chim xanh" tức là chim báo tin.
            Nguyên vua Võ Ðế đời nhà Hán đương ngự chơi ở vườn Thượng uyển, bỗng thấy có hai con chim xanh bay đến. Ðông Phương Sóc hầu bên tâu rằng: đó là sứ giả của Tây vương mẫu đến trước báo tin Tây vương mẫu sắp đến. Qủa nhiên, một lúc sau, Tây vương mẫu đến thăm nhà vua.
            "Chim xanh" được mượn chỉ sứ giả, người đưa tin.
            "Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh" có nghĩa là không có dòng sông thả lá thắm, không có lối chim xanh bay vào, ý nói không thông tin tức được với người bên trong. Xem như tất cả nỗi chờ mong gặp gỡ hay tin tức đều hoàn toàn tuyệt vọng.
            Ðoạn tả Kim Trọng có vẻ suồng sã, lả lơi với Kiều, Kiều khuyên có câu:
"Vẻ chi một đoá yêu đào
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh"

(Câu 503 đến 504)
            "Chim xanh" ở đây không còn có ý nghĩa chỉ sứ giả nữa, mà chỉ người mai mối. Kiều nói nhún mình: "Thân em là (một hoa đào) tầm thường trong vườn đào đáng giá gì mà không bằng lòng chấp nhận người mai mối (một khi chàng yêu) được chàng đưa đến... Vậy là Thuý Kiều "buộc" Kim Trọng phải thực hiện điều quan trọng đầu tiên hơn hết, rồi sau sẽ muốn gì thì muốn. "Ai lại tiếc gì với ai", chớ giờ thì "Chữ trinh đáng giá ngàn vàng"...
(Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét