Hình tượng nhân vật nho sĩ đã trở nên quá quen thuộc
và phổ biến trong các tác phẩm văn chương Việt Nam qua các giai đoạn, đặc biệt
là văn học trung đại. Mỗi tác giả có những đóng góp riêng cho nhân vật này tạo
nên sự khác biệt trong các tác phẩm cùng thời. Nguyễn Dữ cũng vậy. Ông đã viết
nên một áng “thiên cổ kỳ bút” – Truyền kỳ mạn lục, đồng thời cũng là
sáng tác duy nhất của Nguyễn Dữ, mở đầu cho nên văn xuôi tự sự Việt Nam. Đóng
góp chính của nhà văn là ở hình tượng nhân vật nho sĩ.
Khi xây dựng hình tượng này, Nguyễn Dữ cũng có kế thừa
những đặc điểm nho sĩ của các sáng tác trước đó. Tuy nhiên, văn chương không cần đến những người thợ
khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người
biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì
chưa có (“Đời thừa” – Nam Cao), nên
bằng tất cả tấm lòng, tài năng và sáng tạo của bản thân, Nguyễn Dữ cũng cho người
đọc thấy những đổi mới trong việc xây dựng hình tượng nhân vật nho sĩ. Chính vì
vậy, trong giới hạn cho phép, người viết đề tài để chỉ ra những đặc điểm của
hình tượng nho sĩ trong ứng xử đời thường trong “Truyền kỳ mạn lục” của
Nguyễn Dữ. Bên cạnh đó, người viết cũng muốn người đọc nhận thức được những đặc
điểm của hình tượng nho sĩ trong thời kì suy thoái của chế độ phong kiến Việt
Nam ở thế kỉ XVI.
1. Hình tượng nho sĩ là nhân vật chính
diện qua ứng xử đời thường
Lấy
chất liệu xây dựng nhân vật văn học từ truyền thống tốt đẹp của người nho sĩ,
những người có học thức, được dạy dỗ về đạo lý “tam cương ngũ thường”, có chí hướng tu thân, tề gia trị quốc bình
thiên hạ. Nguyễn Dữ đã xây dựng nên những nho sĩ chính diện mang phẩm chất tốt
đẹp rất đáng ca ngợi của những nhà sống có tình nghĩa, tôn trọng đề cao các mối
quan hệ như tình thầy trò, tình bạn, tình yêu thủy chung sâu sắc… Thể hiện mong
ước về sự tất thắng của chính nghĩa, là mục tiêu hướng tới cái chân – thiện – mỹ
trước cuộc đời còn nhiều oan trái, tác giả đã giành cho những nhân vật nho sĩ
chính diện những kết thúc tốt đẹp, có hậu.
Nhân
vật Phạm Tử Hư và Dương Trạm trong “Chuyện
Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào” mang niềm tự hào theo kiểu Nho giáo. Phẩm chất
Phạm Tử Hư “là người tuấn sảng hào mại,
không ưa kiềm thúc. Theo học nhà xử sĩ Dương Trạm, Trạm thường răn Tử Hư về
tính hay kiêu căng. Từ đấy chàng cố sức sửa đổi trở nên con người có đức tính tốt”
[1,142]. Tử Hư là người học trò trung hậu, mang trong mình phẩm chất “tôn sư trọng đạo” luôn là học trò tình
nghĩa, không quên ân tình, tôn trọng những điều răn dạy của người thầy đã tận
tình dạy dỗ mình thành người tốt. Đức tính cao cả, trung hậu của Phạm Tử Hư được
thể hiện ở chỗ sau khi thầy Dương Trạm mất thì các học trò khác tản đi hết còn
Phạm Tử Hư thì “làm lều ở mả để chầu chực,
sau ba năm rồi mới trở về” [1,142]. Đó là người học trò có đức, luôn biết
ơn người dạy dỗ, giữ đạo lý làm người, không nản chỉ quyết tâm đèn sách, kế
nghiệp thầy. Vì tấm lòng trung hậu, tình nghĩa, một lòng thờ thầy nên cuối cùng
chàng được đền đáp xứng đáng lên chơi Thiên tào và thi đỗ ra làm quan giúp dân,
“rồi phàm những việc cát hung họa phúc
nhà Tử Hư, thường được thầy báo cho biết” [1,150]. Qua nhân vật Phạm Tử Hư,
tác giả khuyên con người sống giữ đạo lý làm người như lời khuyên cuối truyện:“Nay như việc Phạm Tử Hư lên chơi trời để
dùng khuyên những người trung hiếu với thầy lại có thể răn những kẻ bất hiếu với
thầy”[1,150]. Sống phải có nhân nghĩa trước sau như một, không quên người
đã dạy dỗ mình. Còn Dương Trạm là người thầy tốt, phúc hậu, luôn dạy con người
những điều hay lẽ phải, sống biết giữ đều tín nghĩa với thầy bạn “quý trọng những tờ giấy có chữ hễ thấy rơi
vãi liền nhặt mà đốt đi” [1,143].
Chính vì tấm lòng biết quý trọng cái nghĩa, cái đạo đó mà khi mất được lên
Thiên tào giữ chức quan hiển hách trông coi việc văn chương thi cử.
Bên
cạnh việc phản ánh những tình cảm tốt đẹp giữa Thầy và trò, Nguyễn Dữ còn thể
hiện những phẩm chất tốt đẹp khác của người nho sĩ chân chính. Đó là những con
người tình nghĩa với anh em, bè bạn…
Phùng
Lập Ngôn trong “Chuyện người nghĩa phụ ở
Khoái Châu” là vị quan thẳng thắn, cương trực. Với láng giềng bạn bè, ông “lấy nghĩa mà chơi bời đi lại với nhau rất
thân, coi nhau như anh em vậy”[1,20]. Dù gia đình ông và gia đình người
láng giềng Từ Đạt lề thói không giống nhau: “Phùng
giàu mà Từ nghèo, Phùng xa hoa mà Từ tiết kiệm; Phùng chuộng dễ dãi mà Từ thì
giữ lễ”[1,20]. Ông có người con trai là Trọng Quỳ, Từ Đạt có người con gái
là Nhị Khanh, trai tài gái sắc đôi trẻ có ý muốn kết duyên Châu Trần, ông cũng
vui lòng ưng gả, không vì chê Từ nghèo chọn nàng dâu, không vì môn đăng hộ đối
mà cốt ở con người Nhị Khanh “khéo biết
cư xử với họ hàng rất hòa mục”[1,21]. Rõ ràng Phùng Lập Ngôn là người chuộng
nghĩa, không vì tiền bạc mà chơi bời với bè bạn mà chỉ cốt về cái nghĩa khí ở
con người. Đó là một phẩm chất rất đáng quý và hiếm thấy trong xã hội đương thời.
Đến
thế kỷ XVI, nhà nho là khuôn mặt tiêu biểu của văn học bởi sự tự khẳng định và
phát huy ảnh hưởng của nhà nho gắn bó chặt chẽ, có quan hệ nhân quả với sự củng
cố từng bước, tiến dần tới trạng thái toàn thịnh cổ điển của mô hình thiết chế
xã hội chuyên chế, có Nho giáo làm công cụ ý thức. Vì vậy hình tượng nho sĩ dù
là ẩn dật hay hành đạo đều có nội dung giáo dục sâu sắc, khuyên con người sống
phải có nhân nghĩa, có trước có sau không quên những người giúp mình khi hoạn nạn.
Đó là quan niệm tiến bộ không chỉ trong xã hội đương thời mà còn có ý nghĩa lâu
dài khuyên răn chúng ta sống sao cho phải đạo làm người. Cũng giống như cái
tình nghĩa của gia đình Thạch Mang không quên ơn cứu giúp của Dương Đức Công
khi gặp hoạn nạn và trả ơn bằng cách gả con gái là Hán Anh cho Thiên Tích trong
“Chuyện gã trà đồng giáng sinh”.
Văn
Dĩ Thành trong “Chuyện tướng Dạ Xoa” là
ông quan vì dân lo cho số phận nhân dân, luôn làm việc đại nghĩa và còn là người
thủy chung trong tình bạn. Khi Lê Ngộ gặp cảnh gia đình bị bệnh dịch rất nặng,
Dĩ Thành đã ra tay giúp đỡ đưa lại hạnh phúc cho gia đình bạn. Lời bình của tác
giả đã thể hiện lý tưởng đẹp đẽ: “Khi đã
coi ai làm người bạn chân chính thì sống chết không đổi thay, hoạn nạn cùng cứu
gỡ”[1,281]. Qua câu chuyện với nhân vật chính diện của Văn Dĩ Thành, Nguyễn
Dữ muốn gửi gắm hoài bão lớn về quan niệm sống giữa con người với con người phải
lấy cái tình nghĩa làm đầu. Đấy là vấn đề mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc đặt ra
với xã hội phong kiến đang trên đường rạn nứt, suy thoái.
Rồi
đến “Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên”, Từ
Thức làm tri huyện Tiên Du từng cởi áo chuộc tội cho người con gái bị bắt do lỡ
tay làm gãy hoa quý nên được người đời khen là hiền nhân. Vì tình con người
nhân hậu, bỏ áo quan để giúp người hoạn nạn, không vì danh lợi mà vì tấm lòng
cao cả của người quân tử ra tay cứu giúp. Từ không ham danh lợi “không thể vì số lương năm đấu gạo mà buộc
mình trong đám danh lợi” để rồi ông bỏ mũ quan đến nước non thắng cảnh nhằm
giữ lòng trong sạch. Đó là khát vọng tự do. Sau đó, chàng được Ngụy phu nhân ở
núi Nam Nhạc gả con gái Giáng Hương - người con gái làm gãy cành hoa quý ngày
nào bởi ân tình không quên, thấy “chàng
là người cao nghĩa, sẵn sàng giúp sự nguy khốn con người”[1,128-129]. Mối
tình thơ mộng giữa Từ Thức và Giáng Hương mang nặng tình người ở nơi bồng lai
tiên cảnh. Từ Thức phong lưu rất mực, hứng thú cảnh tiên mà vẫn nặng tình đời,
vẫn nhớ về quê hương về cội nguồn “tiếng
thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng một nỗi buồn bâng khuâng,
quấy nhiễu không sao ngủ được… Lòng quê bịn rịn, lòng cỏ héo hon…”. Chàng
không quên quê hương, không quên trách nhiệm của mình. Sự hợp rồi tan của Giáng
Hương và Từ Thức là vấn đề Nguyễn Dữ đặt ra hạnh phúc chỉ tổn tại trên cõi trần
thì mới bền lâu. Truyện toát lên tinh thần dân tộc. Nguyễn Dữ dùng nó để lý giải
cuộc sống trong sự suy thoái xã hội phong kiến, trật tự đảo điên. Tác giả đặt
ra vấn đề qua việc nghiệp duyên, quả báo, họa phúc của Phật giáo.
Ngoài
những phẩm chất đẹp đẽ đó, hình tượng nho sĩ là nhân vật chính diện còn mang những
biểu hiện cụ thể, cảm động sống tình nghĩa, thủy chung son sắt trong tình yêu.
Nguyễn Dữ chú ý đến số phận cá nhân, tình yêu đôi lứa. “Chuyện Lệ Nương” viết về Phật Sinh và Lệ Nương, hai người gắn bó
yêu thương nhau từ thuở bé, đã hứa hôn với nhau. Nhưng số phận rủi ro do xã hội
gây nên chia cắt hạnh phúc, gặp lúc hoạn nạn Lệ Nương bị bắt vào cung nữ làm
tì. Phật Sinh giữ tấm lòng thủy chung son sắt, quyết không lấy ai để giữ trọn
nghĩa tình. Sau Lệ Nương lại bị tướng nhà Minh là Lã Nghi bắt đi, Phật Sinh quyết
ra tìm và cứu Lệ Nương, tuy túi đầy đã cạn kiệt nhưng tình thủy chung luôn giữ.
Số phận oái ăm hay Lệ Nương không chịu nhục đã tự vẫn để giữ trọn nghĩa với Phật
Sinh, chàng đau đớn xót thương vô cùng. Vì căm thù giặc cướp đi người mình yêu
thương, chia lìa hạnh phúc, Sinh đã đem quân giúp nhà vua đánh giặc vừa trả thù
nhà, vừa trả nợ nước. Nguyễn Dữ ca ngợi phẩm chất thủy chung, son sắt, nghĩa
tình, ngợi ca sự đấu tranh, lòng yêu nước của Sinh. “Chuyện Lệ Nương” kết thúc là một bi kịch đau đớn về một mối tình
thủy chung trong cảnh đất nước bị giặc ngoại xâm. Mối tình ấy đầy bi tráng và
xúc động lòng người. Tác giả có phần tố cáo chiến tranh phi nghĩa chia rẽ, tan
vỡ hạnh phúc đôi lứa, thông cả, và chia sẻ nỗi đau với họ. Đó là tấm lòng cao cả,
bao dung.
Trong
“Chuyện nàng Túy Tiêu”, Dư Nhuận Chi
là người nổi tiếng hay thơ đất kinh kì, thương yêu người con gái xinh đẹp tên
Túy Tiêu. Đó là mối tình chung thủy thắm
thiết của đôi gái sắc trai tài và cuộc đấu tranh giành lại hạnh phúc gia đình lứa
đôi. Túy Tiêu bị quan Trụ quốc họ Thân bắt cướp đem về. Chi làm đơn kiện lên tận
triều đình nhưng vì họ Thân ưu thế lớ nên các tòa án đều tránh không xét xử. “Chàng đau buồn lắm chẳng thiết gì thi cử nữa”[1,191]
rồi chàng nhờ đôi chim đem đến cho Túy Tiêu một phong thư kể nỗi thương đau vì
ly biệt. Sau chàng đến ở nhà quan Trụ quốc kiên nhẫn chờ ngày Túy Tiêu được trả
về. Cuối cùng với sự giúp đỡ của người đầy tớ và tình yêu tha thiết, họ đã vượt
qua những ngang trái của cuộc đời. Truyện ca ngợi lòng thủy chung son sắt của
Dư Nhuận Chi và quyết đấu tranh chống lại quan Trụ quốc, chờ đợi tìm cách cứu
Túy Tiêu. Biểu hiện ấy chính là sự đấu tranh giành lại hạnh phúc, quyền sống
cho mình, chống lại trái ngang. Cốt truyện mang giá trị nhân bản hiện thực, hạnh
phúc có được là phải biết chờ đợi, là phải có sự thủy chung son sắt. Tác phẩm
mang tư tưởng đấu tranh chống lại bạn tàn rất mạnh mẽ để rồi cuối cùng chính
nghĩa thắng gian tà, thiện thắng ác. Giá trị hiện thực mà tác phẩm mang lại là
vấn đề mới mẻ đầy ý nghĩa đợi chờ “hạnh
phúc là đấu tranh” mang tư tưởng tiến bộ của nhà văn Nguyễn Dữ.
2.1.1.1 Hình tượng nho sĩ là nhân vật phản diện
qua ứng xử đời thường
Để
làm nổi bật nhân vật nho sĩ chính diện, Nguyễn Dữ còn xây dựng khá thành công
nhân vật phản diện để đối lập với nhân cách nhà nho chính diện, mang những phẩm
chất xấu xa, trái với đạo lý và lý tưởng. Đó là bộ phận tiêu cực trong tầng lớp
trí thức phong kiến, tuy nhiên hình tượng nho sĩ hành đạo là nhân vật phản diện
cũng phần nào phản ánh được tình hình Nho học, sự biến động của xã hội phong kiến.
Bên
cạnh các truyện miêu tả những mối tình lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện
nhu cầu tình cảm con người thì nhiều truyện khác lại miêu tả những mối tình
trái với đạo lý nho gia, phản ánh quan niệm sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc.
Trước hết đó là những kẻ sĩ ham mê sắc đẹp mà bỏ bê học hành tu dưỡng, thiếu
chí hướng lập công danh chỉ say mê lao mình vào những niềm vui thực tế. Trong “Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây”, Hà Nhân, người
học trò quê ở Thiên Trường đến ngụ ở kinh sư theo học cụ Ức Trai. Vậy mà tháng ngày
chỉ lo trêu đào, ghẹo liễu, Hà say sa yêu dấu hai người con gái do hồn hoa biến
ra. Trong những cuộc hoan lạc vụng trộm, Hà đã tán dương những bài thơ đầy
khoái lạc vật chất của tình nhân, rồi để tỏ ra vốn con nhà “thi lễ”, chàng cũng làm thơ đáp lại sự “may mắn” trong cảnh “bướm giỡn,
hoa phô” với hai cô gái “trai lơ, dâm
đãng” đó. Tuy mang tiếng du học
nhưng “bút nghiêng chí nản, son phấn tình
nồng”, không biết lo lắng đèn sách tu thân giúp đời, thật hổ danh kẻ sĩ
trong thiên hạ.
Viên
quan họ Hoàng trong “Chuyện yêu quái ở
Xương Giang” tình cờ gặp một người con gái bên bờ sông, chưa rõ gốc tích ra
sao đã vội vàng kết duyên vợ chồng. Đến nỗi yêu quái làm cho mê lịm đi không
còn biết gì nữa thì thiệt thân may được kịp thời cứu thoát. Y thiếu ý chí, ham
mê sắc đẹp nên bị trừng phạt một kỷ cũng xứng đáng.
Trong
xã hội phong kiến, hầu như những người được rèn luyện nơi cửa Khổng, sân Trình,
thấm nhuần lý tưởng của Nho giáo đều mang trong mình ước mơ, hoài bão cá nhân:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.”
(Nguyễn
Công Trứ)
những người ấy đêm ngày ôm ấp hoài bão, chăm lo đèn
sách tu thân để thực hiện ước mơ của mình. Nhưng cũng có những kẻ sĩ đọc sách
Thánh hiền nhưng lại rời xa lý tưởng hành đạo, chỉ lo hưởng thụ, thỏa mãn cá nhân.
Qua hình tượng nhân vật Hà Nhân và viên quan họ Hoàng, Nguyễn Dữ đã phê phán những
kẻ sống không có lý tưởng, hoài bão xứng đáng với chí khí của người nam tử, chí
làm trai mà không biết tu thân giúp đời, chỉ biết ham mê sắc dục. Miêu tả những
mối tình trong sự biến động của xã hôi phong kiến nhất là khi tầng lớp thị dân
đã xuất hiện đòi hỏi nhu cầu tình cảm cá nhân phải được thỏa mãn, Nguyễn Dữ
thông cảm với những khát vọng hạnh phúc cá nhân chính đáng khi miêu tả những cặp
trai gái công khai yêu nhau. Thể hiện nỗi buồn thương mong nhớ của cặp tình
nhân phải xa cách nhau, không thông cảm thì không thể viết nổi những câu thơ thắm
thiết như thế này:
“Bon bon xe ruổi trời mai
Lòng em khô héo tiễn
người đường xa
Bến Nam cỏ
áy bóng tà
Vườn Tây một rặng
mai già khóc mưa
Cỏ cây
rầu rĩ liêu sơ
Chàng về thiếp luống
ngẩn ngơ tâm hồn
Vì chàng
hát khúc nỉ non
Biệt ly để đặng
đau buồn cho ai”
Nguyễn Dữ càng táo bạo và
phóng túng hơn khi thể hiện quan hệ luyến ái không lành mạnh giữa Hà Nhân và
hai nàng Đào, Liễu trong “Chuyện kỳ ngộ ở
Trại Tây”. Đây là một đoạn trong truyện: “Sinh rủ rê hai ả đến chơi chỗ trọ của mình, chuyện trò đằm thắm. Chàng
lả lơi cợt ghẹo, hai ả thẹn thò nói rằng: “Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy
thắm còn phong, chỉ e mưa gió nặng nề, hoặc không kham nổi cho những tấm thân
hoa mềm yếu”. Sinh khuyên lơn dịu ngọt rồi cùng tắt đèn đi nằm. Lửa đượm hương
nồng, ân ái mười phần thỏa nguyện”[1,60]. Những điều đó thật xa lạ với quan
niệm lành mạnh về nhân sinh, về tình yêu nam nữ của đạo lý Nho giáo. Với những
truyện này, Nguyễn Dữ đã phê phán những quan niệm đồi trụy và khẳng định lại những
giáo điều về đức hạnh, tiết nghĩa. Sự phê phán và khẳng định đó xuất phát từ
thái độ bảo thủ của Nho giáo, nhưng xét về mặt khách quan thì cũng hợp với cuộc
đấu tranh để giữ gìn phẩm giá con người.
Tuy thông cảm với khát khao
yêu đương của con người, nhưng quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ
giáo phong kiến. Điều đó phản ánh thái độ đầy mâu thuẫn trong tư tưởng và tình
cảm của tác giả. Để phê phán những nho sĩ phản diện, “Truyền kỳ mạn lục” còn viết
về những kẻ sĩ có những hành động cậy uy thế để làm những điều bất nghĩa. Trọng
Quỳ trong “Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái
Châu” có người vợ tên là Nhị Khanh. Nàng là người con gái xinh đẹp, nết na “khéo biết cư xử với họ hàng rất hòa mục, thờ
chồng rất cung thuận, người ta đều khen là người nội trợ hiền”[1,21]. Chồng
đi xa đến sáu năm trời mà không có tin tức, “mất
còn chẳng rõ” nhưng nàng vẫn kiên trinh một lòng thủy chung chờ chồng về, giữ tấm lòng trong sạch
tiết nghĩa khi bà cô ép nàng cải giá. Thương nhớ Trọng Quỳ, nàng đã nhờ lão bộc
lặn lội đi tìm, gia đình sum họp. Những tưởng hạnh phúc đó là mãi mãi, nào có
ngờ đâu Trọng Quỳ vì quen thân phóng đãng thuộc tính chơi bời, tính nào tật nấy,
nết cũ khó đổi thay, hàng ngày cùng tên lái buôn bê tha Đỗ Tam lêu lỗng. Cuối
cùng Trọng Quỳ mê muội đến mức đưa cả vợ tào khang của mình ra đánh bạc để rồi
thua cược gạt nợ cho tên lái buôn Đỗ Tam hiếu sắc. Mà Nhị Khanh từng khuyên chồng
“những người lái buôn phần nhiều giảo quyệt,
đừng nên chơi thân với họ” [1,28] nhưng Trọng Quỳ là người chồng nhu nhược,
hèn nhátl, bê tha không nghe. Nhị Khanh thất vọng, đau buồn tự vẫn. Cái chết của
Nhị Khanh là cái chết của sự bất lực với người chồng nhu nhược, bạc tình bạc nghĩa của xã hội “nam tôn nữ ty”. Trọng Quỳ sau này hối cũng đã muộn rồi.
Thể hiện niềm tin vào phẩm chất
đạo đức của con người, Nguyễn Dữ đã đặt hình tượng nho sĩ trong các mối quan hệ
luân thường. Bởi chúng ta đều biết Nho giáo chú trọng đến con người, chú trọng
đến đạo đức, nhìn nhận con người trong quan hệ luân thường: vua – tôi, cha –
con, anh – em,vợ – chồng. Đạo đức trở thành tiêu chuẩn cơ bản để phân loại con
người trong văn học Nho giáo. Qua hình tượng nhân vật nho sĩ, nhà văn đã đặt ra
nhiều vấn đề có ý nghĩa trong cuộc sống đời thường của con người. Đó là cách ứng
xử trong tình yêu, tình bạn, tình thầy trò, chồng vợ. Khi mà chế độ phong kiến
rơi vào thời kỳ rối ren, suy yếu các giá trị đạo đức “tam cương, ngũ thường” bị đảo lộn thì hình tượng người nho sĩ dù ẩn
dật hay hành đạo vẫn là hình tượng mẫu mực
trong các mối quan hệ đời sống con người. Bên cạnh những hình tượng nho sĩ là
nhân vật chính diện, tác giả còn dựng xây nên hình tượng nho sĩ là nhân vật phản
diện để lên án những cái xấu xa và cổ vũ thuần phong mỹ tục, củng cố lại trật tự
xã hội. Ông ca ngợi những người nho sĩ biết sống đúng với đạo lý, đúng với lời
dạy của sách Thánh hiền mà họ đã được học. Họ là những tấm gương sáng cho người
đời noi theo, họ mang trong mình những phẩm chất đáng quý của người Việt Nam
ngàn đời nay “tôn sư trọng đạo”, nhân
nghĩa thủy chung.
Nguyễn Dữ xây dựng hình tượng
nho sĩ trong ứng xử đời thường không ngoài mục đích răn đe người xấu, khích lệ
người tốt. Ở mỗi hình tượng, dù là nhân vật chính diện hay phản diện cũng đều
là một bài học về đạo đức, cách ứng xử của con người trong cuộc sống đời thường.
Với những nho sĩ không có nhân nghĩa, sống trái với đạo lý cương thường bao giờ
cũng có những “phần thưởng” xứng
đáng.
Tài liệu tham khảo chính:
1.
Nguyễn Dữ
(Trúc Khê, Ngô Văn Triện dịch) (2002), Truyền
kỳ mạn lục, NXB Văn Nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
2.
Trần Ích
Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn
đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, NXB Văn học, Hà Nội.
3.
Phạm Tú
Châu, Về mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân
thoại và Truyền kỳ mạn lục, Tạp chí Văn học, số 3/1987
4.
Dương Quảng
Hàm (1996), Việt Nam văn học sử yếu,
NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
Tác giả: Nguyễn Hùng Vĩ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét