1.
Từ năm 1932 đến 1945, song song với phong trào văn
xuôi Tự lực văn đoàn, một trào lưu thơ ca ra đời đã mang lại nhiều sinh lực và
những dự phóng mới mẻ cho văn học dân tộc. Đó là phong trào Thơ mới. Thơ mới là
sự hội tụ, kết tinh từ ba dòng thơ Việt, thơ Đường và thơ Pháp. Trào lưu này xuất
hiện cũng chính là nơi hội tụ đông đảo của những phong cách nghệ thuật độc đáo,
đa dạng của các thi nhân. Xuân Diệu được Hoài Thanh nhận định “mới nhất trong
các nhà Thơ mới” (Thi nhân Việt Nam ).
Thơ Xuân Diệu là một sự lạ hóa về mặt ngôn từ với những cách tân độc đáo mới lạ
bởi những ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng siêu thực của lối thơ Pháp. Tuy vậy,
những quán tính của thơ cũ vẫn còn trong lối viết của ông, trong đó có nghệ thuật
sử dụng điển cố. Trong thế giới nghệ thơ Xuân Diệu trước 1945, điển cố là một
trong những thủ pháp nghệ thuật được ông vận dụng sáng tạo và có chủ đích.
2.
Nói đến thơ ca là nói đến những đặc trưng của tính
hình tượng, đa nghĩa và hàm súc… Điều đó cho phép điển cố được dẫn dụng như một
phương thức chủ đạo. Thơ mới được xem là là một trong những nhịp cầu của hai bến
bờ thơ ca truyền thống và hiện đại. Bước sang quỹ đạo của thơ ca hiện đại, Thơ
mới không hề đoạn tuyệt với thơ cũ. Những ảnh hưởng của âm hưởng thơ Đường, thi
pháp văn học trung đại, đặc biệt nghệ thuật dụng điển vẫn song hành bên cạnh những
bút pháp mới trong các sáng tác.
Xuân Diệu được biết đến là nhà thơ chịu
những ảnh hưởng sâu sắc của lối viết phương Tây. Tuy nhiên, những đặc trưng của
thơ ca trung đại, trong đó có điển cố vẫn được ông dẫn dụng trong các sáng tác
của mình. Điển cố trong thơ ông không phải là một đồ cổ cũ kĩ lạc hậu trong đối
tượng thẩm mỹ hay là sự vụng về, sùng cổ trong bút pháp. Ngược lại, bằng nghệ
thuật sử dụng điển cố tài tình, Xuân Diệu đã góp phần chắp cánh cho Thơ mới
tích cực hòa nhập với quỹ đạo tiếp nhận của công chúng đương thời.
Nửa đầu thế kỉ
XX, khi nền Hán học suy vi, các nhà Thơ mới nói chung, Xuân Diệu nói riêng ít
nhiều chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thơ Pháp. Tuy là một trí thức Tây học nhưng
Xuân Diệu vẫn có những ảnh hưởng từ người cha của mình. Chữ Hán đã được ông học
tập từ rất sớm. Nhà thơ yêu thích và thuộc nhiều bài thơ Đường, nhiều tác phẩm
kinh điển của văn học trung đại nước ta. Đó là cơ sở để ông nắm vững về điển cố
và dẫn dụng chúng một cách chủ động, linh hoạt vào trong các sáng tác của mình.
Như đã biết, thơ ca cổ điển phương Đông chuộng trầm
tĩnh, chú trọng sự tương giao, tương hợp, nặng về biểu ý, biểu tình… Đó chính
là cội nguồn của tư duy Thơ mới. Cho nên không hề mâu thuẫn khi trong các bài
thơ của Thơ mới, trong đó có tác phẩm của Xuân Diệu vừa chịu ảnh hưởng của chủ
nghĩa tượng trưng lại vừa yêu chuộng việc sử dụng từ Hán Việt, thi liệu, dẫn dụng
các điển cố là những biểu tượng của thơ ca truyền thống. Mượn phương tiện của
phương Tây, truyền tải hồn vía của phương Đông là đặc trưng của Thơ mới nói
chung và của thơ Xuân Diệu nói riêng.
Trình giữa làng Thơ mới với một cái tôi đa phong cách,
thơ Xuân Diệu trước năm 1945 vừa mang tính hiện đại lại vừa mang hơi hướng cổ
điển. Trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió, một số bài thơ
như Vội
vàng, Vô biên, Huyền diệu, Đây mùa thu tới,… chịu ảnh
hưởng rõ nét, có nhiều cách tân trong lối viết được học hỏi từ thơ Pháp bởi chúng
thiên về thế giới trữ tình, tràn đầy cảm xúc với những thức cảm thời gian… Một
số bài thơ khác như Nguyệt cầm, Lời kỹ nữ, Nhị hồ, Mơ
xưa, Xuân đầu… lại có hơi hướng cổ điển, mang tính chất hoài cổ, trang
nhã, sâu sắc, thâm trầm. Việc vận dụng những điển tích, điển cố vào nhóm bài
này là hoàn toàn có chủ ý sáng tác. Dĩ nhiên, điển cố mang đến cho những bài
tho này nhiều giá trị thẩm mĩ độc đáo, quan trọng.
3.
Được biết đến là “ông hoàng thơ tình”
với những mộng Đường thi, Tống thi, cùng sự nuối tiếc một thời quá khứ vàng son,
bế tắc trước thực tại là cơ sở để Xuân Diệu tìm về những con người tài sắc của
một thời. Họ là những minh quân, tôi hiền, giai nhân tuyệt sắc, tức những hình
mẫu lí tưởng trong quan niệm về con người của chủ nghĩa lãng mạn. Những điển
nhân danh là nhân vật lịch sử như Lộng Ngọc, Tiêu Lang, Bao Tự, Ly Cơ, Đường
Minh Hoàng, Dương Quý Phi… không còn đơn thuần là những câu chuyện lịch sử về
các giai thoại... mà hàm ẩn trong đó nhiều giá trị văn hóa, thẩm mỹ. Cái hay của
việc vận dụng những điển cố này là truyền tải một tư tưởng thẩm mỹ về khát khao
tìm thấy con người lý tưởng ngay cả trong tiềm thức:
… Và nàng Lộng Ngọc lấy Tiêu Lang,
Cưỡi
hạc một đêm bay lên trời.
Vua
Trần hậu chúa ngó trăng vàng,
Khúc
Hậu đình hoa đương lên khơi.
[….] Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi,
Tôi
mê Ly Cơ hình nhịp nhàng
Tôi
tưởng tôi là Đường Minh Hoàng,
Trong
cung nhớ nàng Dương Quý Phi.
(Nhị hồ)
Trước sự bất hòa với thực tại của chủ
nghĩa lãng mạn, xuất phát từ cảm hứng hoài vãng, trong Mơ xưa, Xuân Diệu mượn
chuyện Chiêu Dương, Hậu Đình, chuyện Hán Cao Tổ… để tìm đến lý tưởng, những điều
phi thường vượt trên hiện thực tầm thường, tù túng:
Những Chiêu Dương, những Hậu Đình
tráng lệ
Đẹp
vì chưng xây với oán cung phi.
Cung
nhà Tần trùng điệp mái lâm ly,
Hán
Cao Tổ đốt chín ngày mới hết;
Tần
cung nữ ba mươi trăm, chẳng biết
Gót
sen vàng liễu yếu chạy về đâu?
Không chỉ những trang giai nhân tuyệt sắc mà những người
nữ vô danh như “kỹ nữ”, một đề tài quen thuộc của thơ trung đại, cũng chính là
cảm thức “đồng cảm tương liên” để nhà thơ tiếc nuối quá khứ, nghiền ngẫm về cái
tôi bản thể giữa cuộc đời. Lời kỹ nữ, bài thơ mượn lại điển
thi ca trong bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, là tiếng lòng của một phút thoáng
qua giữa mối tình đầy tri kỉ và sâu đậm - “kỹ nữ” và du khách”
Lời
kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt,
Cuộc
yêu đương gay gắt vị làng chơi.
Người
viễn du lòng bận nhớ xa khơi,
Gỡ
tay vướng để theo lời gió nước
(Lời kỹ
nữ)
Cùng với điển nhân danh, các điển địa
danh được dẫn dụng cũng làm sống lại không khí của một thời vang bóng. Hệ thống
điển địa danh trong thơ Xuân Diệu trước 1945 có số lượng khá lớn, chủ yếu gắn
có nguồn gốc văn hóa Hán học, có tác dụng to lớn trong việc phục dựng không
gian quá khứ là không gian đẹp đẽ, mỹ lệ, trang trọng, đối lập với không gian
chật hẹp, tầm thường trong hiện tại. Ví như, trong Nguyệt cầm, có
một bến “Tầm Dương” mơ về với dư âm tiếng đàn vang vọng đã làm cho thiên nhiên
âm nhạc và con người tương tư, hòa lẫn trong nhau. Nếu tiếng đàn của Bạch Cư Dị
hiện lên với những cung bậc tâm trạng của người kĩ nữ bị ruồng bỏ, của người
nghe đàn bị đày đọa thì tiếng đàn của Xuân Diệu như là gam màu chủ quan của cái
tôi trực cảm can thiệp:
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời;
Đàn
ghê như nước lạnh trời ơi!
Long
lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người
4.
Ngoài những
giá trị nội dung, tư tưởng đã dẫn ra trên đây, điển cố còn mang lại nhiều giá
trị thẩm mĩ đối với ngôn ngữ và giọng điệu thơ Xuân Diệu trước 1945. Tuy còn chịu
những ảnh hưởng trong lối viết của thơ Pháp, nhưng những dư âm của thi pháp văn
học trung đại, đặc biệt là việc dẫn dụng điển cố, thi liệu trong sáng tác đã tạo
nên một hệ thống ngôn ngữ mang tính trang nhã, uyên bác và sâu sắc. Trong bài Xuân
đầu, thi sĩ viết:
Trời xanh thế! Hàng cây thơ biết mấy!
Vườn
non sao! Đường cỏ mộng bao nhiêu,
Khi
Phạm Thái gặp Quỳnh Như thuở ấy,
Khi
chàng Kim vừa được thấy nàng Kiều.
Tình yêu đẹp nhất của thi sĩ là cái
phút ban đầu gặp nhau, là mùa xuân với những nỗi niềm khát khao rạo rực. Các điển
cố nội sinh như Phạm Thái - Quỳnh Như, chàng Kim - nàng Kiều được dẫn vào những câu thơ
trên đã làm cho bài thơ như sống lại trong những khoảnh khắc của một thời quá
vãng mang màu sắc cổ kính của những mối tình tri kỉ, sâu đậm.
Bên cạnh những đặc sắc ngôn ngữ, việc dẫn dụng điển
cố trong thơ Xuân Diệu còn tạo nên một âm hưởng, một giọng điệu mang những dấu ấn
riêng biệt. Gắn với những thức cảm thời
gian, cùng với một hồn thơ khát khao sự sống và tình yêu, Xuân Diệu biết cách tạo
nên cho một giọng thơ tình tứ, sôi nổi, gấp gáp và mê say. Ví như điển địa danh
Vạn lí trường thành trong khổ thơ dưới
đây được hình ảnh hóa cho những cách trở trong tình yêu mà chủ thể trữ tình muốn
vượt qua một cách cuống quýt, vội vã:
Dẫu tin tưởng: chung một đời, một mộng.
Em là em: anh vẫn cứ là anh
Có thể nào qua Vạn lý trường
thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật
(Xa cách)
5.
Những điển cố với sự thể hiện tư tưởng và những đặc
sắc nghệ thuật dẫn ra trên đây là minh chứng cho phong cách mới lạ độc đáo của
Xuân Diệu: kế thừa mạch nguồn thơ ca phương Đông, tiếp thu tinh hoa thơ phương
Tây để vươn tới những giá trị mới mẻ, độc đáo. Dùng điển đã trở thành phương thức
sáng tác đầy dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Nghệ thuật dụng điển đã chứng minh
Xuân Diệu khước từ những khuôn sáo gò bó của thơ ca trung đại, nhanh chóng hòa
vão quỹ đạo của thơ ca hiện đại. Với ngòi bút vừa phóng khoáng, bay bổng, lãng
mạn là vừa tài hoa, uyên bác, truyền tải cả hơi hướng Đông - Tây, Xuân Diệu đã
mang tới cho phong trào Thơ mới tiếng nói của thơ ca dân tộc giản dị mà sâu sắc.
Và điều độc đáo ở chỗ, chính nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” lại là người
chủ động vận dụng “cái cũ” nhất của thơ ca truyền thống là điển cố vào trong
sáng tác của mình một cách hiệu quả. Đây là một trong những đặc điểm độc đáo
trong phong cách thơ Xuân Diệu trước 1945 mà lâu nay chúng ta ít để ý.
Quy Nhơn, tháng 04 năm 2017
* Nguồn: Kỷ yếu Hội nghị NCKH Ngữ văn năm 2017, tr 208, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Quy Nhơn
Bình Định, tháng 5 năm 2017
0 nhận xét:
Đăng nhận xét