Thứ Ba, 9 tháng 1, 2018

CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI (Đỗ Thị Ngọc Thanh – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K18, ĐHQN)


Tóm tắt: Sương Nguyệt Minh là một nhà văn quân đội, có nhiều đóng góp vào sự đổi mới văn xuôi sau năm 1975. Ông là tác giả của bảy tập truyện ngắn, hai tập bút kí – tản văn và mới đây nhất là tiểu thuyết Miền hoang. Sáng tác của nhà văn được khơi nguồn cảm hứng từ chính cuộc sống. Gần đây, các vấn đề về môi trường ngày càng được quan tâm: lũ lụt, hạn hán, biến đổi khí hậu… Cùng với các ngành khoa học khác, văn học cũng góp phần thay đổi nhận thức của con người về cách ứng xử đối với thiên nhiên – người bạn đồng hành không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của con người. Truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh bên cạnh những bức tranh cuộc sống với muôn nẻo số phận con người còn thể hiện nỗi niềm của thiên nhiên bị tàn phá và những bi kịch phía sau ấy. Đồng thời, trong các truyện ngắn của nhà văn, ta có thể nhận thấy sự gắn bó, hòa điệu giữa con người và tự nhiên. Những trang viết của Sương Nguyệt Minh đã chạm sâu đến những vấn đề cốt lõi của phê bình sinh thái.
Từ khóa: Sương Nguyệt Minh, thiên nhiên và con người


1.         Dẫn nhập
Từ xa xưa, con người và thiên nhiên có mối quan hệ gắn bó với nhau. Trong quá trình lao động, sinh sống, con người nhận thấy thiên nhiên có sức mạnh, có tiếng nói riêng. Điều này thể hiện rất rõ thông qua hệ thống các truyện kể dân gian: Thần trụ trời, Ông trời, thần mưa, thần gió… Trải qua bao thế kỷ, con người vừa cải tạo, vừa tàn phá thiên nhiên và có những lúc phải gánh chịu những hậu quả nặng nề. Hẳn ta còn nhớ truyện dân gian Thần lúa, vị thần này đã nổi giận vì sự phũ phàng của con người nên đã trừng phạt bằng cách bắt con người phải lao động khổ nhọc mới có được hạt lúa. Và đôi khi cay nghiệt hơn nữa, nữ thần không cho các bông lúa nảy bông. Phải chăng ngay từ thời xa xưa, con người đã nhận thấy cách ứng xử giữa thiên nhiên và con người? Đó là điều con người hiện đại cần suy nghĩ lại, khi mỗi năm môi trường sống lại càng bị tàn phá nặng nề hơn! Văn học nghệ thuật không tách rời mà luôn song hành cùng các ngành khoa học khác trong hành trình bảo vệ màu xanh của Trái Đất.
Nhà văn Sương Nguyệt Minh đặc biệt thành công với thể loại truyện ngắn và trở thành một phong cách độc đáo trong nền văn xuôi Việt Nam sau năm 1975. Truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh khắc khoải những nỗi niềm của một người lính bước ra từ chiến trường, về những điều chưa làm được cho đồng đội của mình và cả những suy tư, trăn trở về cuộc sống hiện đại, luyến tiếc vẻ đẹp yên bình của nông thôn đang dần thay đổi. Không chỉ vậy truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh còn chứa đựng những thông điệp sinh thái đầy ý nghĩa như Sâm cầm Hồ Tây, Nơi hoang dã đồng vọng, Chuyến đi săn cuối cùng… Đọc truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh, người đọc sẽ nhận thấy những cảnh báo về nguy cơ sinh thái và nỗi bất an của con người thời hiện đại. Thiên nhiên bị đối xử một cách tàn bạo, con người phá vỡ môi trường sinh thái vì lợi ích của mình. Chính vì vậy, truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh đã chạm sâu vào những vấn đề của văn học sinh thái.
2.         Sơ lược về phê bình sinh thái
Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp: oikos (nhà, nơi ở) và logos (khoa học, học thuật). Hiểu đơn giản, sinh thái học là khoa học nghiên cứu về “nhà”, “nơi ở” của sinh vật. Hiểu rộng hơn, sinh thái học là khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa sinh vật với môi trường xung quanh.
Khuynh hướng phê bình sinh thái (ecocriticism) được hình thành ở Mĩ vào giữa những năm 90 của thế kỉ XX. Có rất nhiều định nghĩa về phê bình sinh thái, trong đó định nghĩa của Glotfelty được xem là ngắn gọn và dễ hiểu hơn cả. Phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên. Trong bài giới thiệu “Nghiên cứu văn học trong thời kì khủng hoảng môi trường” của Tuyển tập Phê bình sinh thái, các mốc quan trọng trong sinh thái học, Glotfelty đã thể hiện tầm quan trọng của phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth-centered approach) để nghiên cứu văn học. “Bạn sẽ nhanh chóng nhận ra rằng chủng tộc, giai cấp, và giới tính trở thành những vấn đề nóng bỏng vào những năm cuối thế kỉ XX. Thế nhưng, bạn cũng sẽ không bao giờ biết được rằng sự sống của Trái đất – cái nền tảng đang làm nhiệm vụ chống đỡ tất cả những hệ thống ấy – là cái đang nằm sâu bên dưới tất cả những giao tranh căng thẳng đó. Thật vậy, có thể bạn sẽ không bao giờ biết được rằng, dù thế nào, trên tất cả những điều ấy, là chúng ta chỉ có duy nhất một Trái đất mà thôi” 1.
Trong tiểu luận Một số nguyên tắc của phê bình sinh thái (Some Principles of Ecocriticism), từ góc độ của từ nguyên, William Howarth đã định nghĩa phê bình sinh thái thành “phán quyết việc nhà”. “Eco (sinh thái) và Critic (nhà phê bình) đều có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, xuất phát từ oikos và kritis. Ý nghĩa của hai từ này ghép lại chính là “phán quyết việc nhà” (house judge). Điều này sẽ khiến rất nhiều người yêu thích lối viết xanh và đề tài hướng về thế giới bên ngoài lấy làm kinh ngạc. Cụm từ “phán quyết việc nhà” có thể được giải thích dài dòng và quanh co như sau: Nhà phê bình sinh thái là “người đánh giá những ưu nhược tốt xấu trong các tác phẩm miêu tả ảnh hưởng của văn hóa đến tự nhiên, chủ trương ca ngợi tự nhiên, lên án kẻ tàn phá tự nhiên và thông qua hành động chính trị để làm giảm bớt sự thương tổn của tự nhiên”2.
1 Glotfetly C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocritiicism Reader. Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University   of Georgia Pressxv – xxxvi, p.xxi.
2 Nguyễn Thị Tịnh Thy, Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương, nhà xuất bản khoa học xã hội, trang 148





Nhiệm vụ của phê bình sinh thái là qua văn học thể hiện văn hóa ứng xử của con người với tự nhiên. Con người đang đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái và phê bình sinh thái cảnh tỉnh mọi người về sự khai thác, tận diệt tự nhiên quá mức, nhắc nhở con người về vị trí của mình trong sinh quyển. Phê bình sinh thái nhấn mạnh sự tồn tại độc lập của tự nhiên, tự nhiên có tiếng nói riêng của mình.
3.         Truyện ngắn –  khởi đầu làm nên sự thành công trong sự nghiệp của nhà văn Sương Nguyệt Minh
Nhà văn Sương Nguyệt Minh,sinh ngày 15-9-1958, tên thật là Nguyễn Ngọc Sơn, quê ở Yên Mỹ, Yên Mô, Ninh Bình. Lúc đầu, nhà văn lấy bút danh là Sơn Nguyệt Minh (Lấy tên Sơn của nhà văn, tên vợ là Nguyệt và tên con trai là Minh, ghép lại thành Sơn Nguyệt Minh). Dạo mới viết, nhà văn hay in ở báo Quân đội nhân dân, bài gửi đi đến khi báo ra cứ thành Sương Nguyệt Minh. Từ đó, nhà văn  đành lấy bút danh là Sương Nguyệt Minh, và bút danh ấy tồn tại đến bây giờ.
Ông là nhà văn quân đội, đến với nghiệp văn chương khá muộn màng, năm 1992, lần đầu tiên có truyện ngắn (Nỗi đau dòng họ) đăng trên Tạp chí văn nghệ quân đội. Nhưng Sương Nguyệt Minh đã chứng tỏ khả năng của mình sau đó, góp mặt vào những nhà văn tiêu biểu sau năm 1975 với những đổi mới, sáng tạo.
Các nhà phê bình văn học tìm ra con đường vận động trong văn chương của Sương Nguyệt Minh đi từ “hiện thực – lãng mạn” đến “hiện thực – lãng mạn và kỳ ảo” gắn với nhiều mảng đề tài sinh động: chiến tranh, lịch sử, thiên nhiên, thế sự… Ở mảng đề tài nào, chúng ta cũng nhận thấy sự lao động công phu của một nhà văn luôn trăn trở với những vấn đề của xã hội, con người. Những trang văn chính là sự trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời, về những gì mà nhà văn đã chứng kiến. Khuất Quang Thụy trong lời mở đầu tập truyện ngắn Mười ba bến nước của Sương Nguyệt Minh đã viết rằng “Vì có may mắn được cùng làm việc với anh nhiều năm nên tôi cũng được chứng kiến và can dự vào những trăn trở, những cuộc vật lộn chống chọi để thoát ra khỏi những cái thông thường mòn nhẵn trong quá trình sáng tác của Sương Nguyệt Minh”.

Đó là khi nhà văn viết và cho in truyện ngắn Người ở bến sông Châu. Ông cứ trăn trở bởi đây là một hiện thực rất lạ ở chiến tranh Việt Nam mà ít người chú ý đến: người trở về từ chiến trường lại là một người con gái chứ không phải một anh lính, và người kết hôn không phải là một người phụ nữ chờ đợi quá lâu mà không thấy người ra đi trở về. Người kết hôn lại là người đàn ông “Ngày dì Mây khoác ba lô trở về làng, chú San đi lấy vợ…”. Đó là trăn trở khi in truyện ngắn Mười ba bến nước. Không phải là mườihai bến nước thông thường trong cách nói dân gian. Cái đau khổ của con người là khi cứ lênh đênh mãi, không biết đâu là bờ bến, không biết đâu là điểm dừng. Điều ấy mới thật là bất hạnh.
Tâp truyện ngắn Dị Hương của nhà văn ngay từ khi phát hành đã gây sự chú ý đối với bạn đọc. Một cuộc tranh luận sôi nổi trên các tờ báo, các website với các ý kiến khen, chê khác nhau. Rõ ràng, điều ấy chứng tỏ được sự quan tâm của dư luận, sự yêu mến của công chúng đối với những tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao, chứa đựng tư tưởng sâu sắc. Đến với Dị Hương, nhà phê bình Ngô Văn Gía đã tặng cho nhà văn ba chữ “Hoạt – Phiêu – Thõa” (Hoạt là sự linh hoạt trong trần thuật, Phiêu là sự chuyển đổi bút pháp từ tâm linh đến siêu thực, Thõa là “chất liệu sex được viết một cách rất cao tay”). Tập truyện đã thể hiện sự vượt thoát ra khỏi những điều thông thường và thể hiện sự đổi mới trong những trang văn của Sương Nguyệt Minh.
Nhiều truyện ngắn của ông đã được dựng thành phim như: Người ở bến sông Châu, Mười ba bến nước… và đã tạo được tiếng vang lớn. Có thể nói rằng, truyện ngắn là bước khởi đầu đầy thành công của nhà văn Sương Nguyệt Minh. Để sau đó, tiểu thuyết Miền hoang như một bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác của ông, dẫn dắt người đọc vào thế giới nghệ thuật phong phú của nhà văn.
Đặc biệt, trong truyện ngắn của nhà văn, ta có thể nhận thấy sự đồng cảm đặc biệt với thiên nhiên. Khung cảnh thiên nhiên của quê hương là bối cảnh cho những truyện ngắn của ông. Thiên nhiên hiện lên thật nhẹ nhàng, giản dị, đậm đà phong vị quê hương trên khắp mọi miền quê của đất nước. Có lẽ vì vậy, Sương Nguyệt Minh được nhà phê bình văn học Nguyễn Hoàng Đức mệnh danh là “nhà văn của những cảnh sắc đồng quê lung linh”. Đọc truyện ngắn của nhà văn, ta cảm nhận được thế giới thiên nhiên, cảm nhận được tâm hồn của chính mình. Cái tài của nhà văn là khơi dậy những rung động thẩm mĩ, những tình cảm tốt đẹp trong mỗi con người chúng ta.
1.         Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh
4.1. Sự hủy diệt thiên nhiên
Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, sự bùng nổ dân số… thì nhu cầu cuộc sống của con người càng gia tăng. Con người vừa cải tạo thiên nhiên theo hướng tích cực vừa tàn phá thiên nhiên một cách vô tội vạ. Hẳn mỗi người chúng ta phải giật mình trước những con số thống kê về diện tích đất rừng bị phá, lũ lụt, sạt lỡ, hạn hán… hằng năm? Phải chăng mẹ thiên nhiên cũng đang phẫn nộ với những hành vi ngang ngược, cố chấp của con người? Thế nhưng con người dường như vẫn chưa nhận thức hết hành vi hủy hoại môi trường sống của mình. Đây đó trong cuộc sống vẫn có những người bất chấp tất cả vì lợi ích riêng của cá nhân.Cùng với các ngành khoa học khác, văn học cũng góp phần thay đổi nhận thức của con người về cách ứng xử đối với thiên nhiên – người bạn đồng hành không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của con người. Truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh bên cạnh những bức tranh cuộc sống với muôn nẻo số phận con người còn thể hiện nỗi niềm của thiên nhiên bị tàn phá và những bi kịch phía sau ấy.
Cụ thể, trong sáng tác của mình, nhà văn đã chỉ ra rằng con người xem tự nhiên là đối tượng để khai thác. Khát vọng làm giàu khiến con người như bị mờ mắt, tận diệt các khu rừng, săn bắn tràn lan, tách động vật khỏi môi trường sống hoang dã. Truyện ngắn Sâm cầm Hồ Tây là một minh chứng rõ ràng cho hành động tàn bạo của con người. Từ bao đời nay, chim sâm cầm hiền lành và luôn gắn bó với người dân làng quê, chim và người sống thân tình, gần gũi. Thế rồi đời sống khấm khá lên, người ta đổ xô đi tìm đặc sản. “Người giàu thường hay sợ chết. Người giàu tuổi còn trẻ chết thì tiếc lắm, chết để vợ đẹp cho ai, tiền bạc của nả cho ai và chơi bời chưa được là bao. Người giàu càng nhiều tuổi chết lại càng tiếc hơn, tiếc vì thời gian hưởng thụ quá ngắn. Vậy nên bồi bổ và kéo dài tuổi thọ là mục tiêu hàng đầu của các ông chủ mới phất”3. Ta có thể nhận thấy giọng triết lí của nhà văn Sương Nguyệt Minh, đời sống càng khá giả, nhu cầu con người càng tăng cao, con người càng sợ chết và tìm mọi cách để kéo dài tuổi thọ của mình. Các nhà hàng đặc sản mọc lên như nấm, khách kéo về càng đông, dân làng lại càng ham bắt chim sâm cầm để bán lấy tiền. Họ bất chấp tất cả, kể cả việc ngày càng vắng những cánh chim sâm cầm trên cánh đồng quê, cả việc chim sâm cầm sợ hãi không về nơi quen thuộc nữa.
Truyện ngắn Nơi hoang dã đồng vọng cũng góp thêm tiếng nói lên án hành vi tàn bạo của con người với thiên nhiên. Cuộc sống càng hiện đại, con người lại càng có cách tận hưởng cuộc sống về đủ mọi mặt. Đôi khi, chính cách tận hưởng của họ khiến ta nghi ngờ về lối sống hiện đại ấy. “Chát. Dùi đục phang mạnh. Miếng chỏm đầu con mèo trắng bay khỏi lưỡi tràng bạt sáng loáng. Eo. Mèo trắng vẫn kịp gào lên một tiếng. Rồi nước đái nó tức thì bắn vọt vào mặt ông chủ. Thân mèo co rút, giật giật. Cả bốn thực khách cười hô hố. Ộc. Ộc. Rượu tràn ly. Bốn vị cầm bốn thìa múc. Mỗi lần thìa thọc vào óc con mèo, chân nó lại co lên”4. Con người tự cho mình quyền hạn làm chủ và tận diệt tự nhiên. Hành vi của các vị thực khách qua cách viết của Sương Nguyệt Minh hiện lên thật thản nhiên và tàn nhẫn.
Không chỉ săn bắt vô tội vạ mà hành vi tách động vật ra khỏi môi trường hoang dã cũng là tội ác. Trong truyện ngắn Chuyến đi săn cuối cùng, Mại là con của thợ săn chuyên nghiệp, tường nhà anh treo nhiều loại móng vuốt, sừng, da thú… Mỗi lưu vật là cuộc đời một con thú. Anh được thừa hưởng cái nỏ săn cha để lại và chỉ khi truy đuổi đến cùng những con khỉ phá rẫy ngô của mình, Mại đã nhận ra hành vi ấy là vô nhân đạo. Mại đã chứng kiến một cảnh tượng khiến anh thay đổi nhận thức.Khi mũi tên anhbắn ra làm khỉ đực bị thương, khỉ cái đã rút mũi tên ra và nhai lá thuốc đắp vào bả vaikhỉ đực, nó còn biết nặn sữa cho khỉ đực uống. Dù là động vật hoang dã, chúng vẫn có cuộc sống của mình, có tình cảm, có tiếng nói riêng. Đó cũng là một gia đình nhỏ trong bầy khỉ rừng. Và con người cần phải tôn trọng điều ấy.
3 Sương Nguyệt Minh, Đi qua đồng chiều (2005), Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 142
4 Sương Nguyệt Minh, Đi qua đồng chiều (2005), Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 115




Ngoài săn bắn thì quá trình đô thị hóa kéo theo hệ quả đào núi, lấp sông… cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của các loài động vật. Điều này được thể hiện rất tinh tế trong sáng tác của nhà văn Sương Nguyệt Minh. Cách viết cuả Sương Nguyệt Minh độc đáo ở điểm: ta càng đọc kĩ, càng nhận thấy nhiều lớp ý nghĩa ẩn giấu bên trong những trang chữ. Sự tác động tiêu cực của con người được thể hiện khéo léo trong tâm trạng các nhân vật. Đó có thể là sự tiếc nuối vì làng quê không còn những cảnh yên bình, không còn những điều quen thuộc gần gũi, là nỗi bồi hồi lẫn cả sự cô đơn của con người… Truyện ngắn Động làng đã miêu tả được những tác động tiêu cực ấy. Qúa trình đô thị hóa đã dẫn đến việc khai thác một cách ồ ạt mà không biết đến hậu quả. Những hành động của chúng ta vô tình đã phá hủy nơi sinh sống, phát triển một cách tự nhiên của các loài động thực vật. Bởi vậy, nhân vật Tâm cảm thấy “ngỡ ngàng không nhận ra ngôi nhà của mình in đẫm kỉ niệm tuổi ấu thơ. Đâu rồi cây sung nằm vươn mình che một góc ao sâu. Đâu rồi bè lục bình nở hoa tím ngắt nhởn nhơ trên mặt nước in bóng trời xanh cùng với các tảng mây trôi. Mãi mãi chẳng còn đêm đêm không ngủ ngồi trên bờ nhìn cá mè ngóng trăng và giật mình nghe sung chín rụng dưới góc ao. Người ta lấp ao, nhà tôi ra mặt đường”5.
Sương Nguyệt Minh sinh ra và lớn lên ở vùng đất Ninh Bình, nơi núi non trùng điệp và có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Tràng An, Tam Cốc, Bích Động… Ninh Bình còn được biết đến bởi nơi đây chính là kinh đô đầu tiên của nước Việt Nam. Khung cảnh thiên nhiên và văn hóa của quê hương đi vào trong những câu văn của ông một cách tự nhiên như máu thịt. Nhà văn Tạ Duy Anh đã viết trong lời tựa Người ở bến sông Châu: “May mắn lớn nhất cho Sương Nguyệt Minh, đúng hơn cho chức phận nhà văn của ông, là ông có cho riêng mình một mảnh đất của văn chương để trụ vững lại. Cái mảnh đất đó chính là vùng bán sơn địa Yên Mô – Ninh Bình với đầy đủ những yếu tố để làm nên một vũ trụ, đi vào thế giới tinh thần của ông như những gì vừa thực, vừa bí ẩn, vừa có sức cám dỗ ma mị như sau này ông vẽ lên, tái tạo ở hầu hết những tác phẩm”. Đọc truyện ngắn của ông, ta còn nhận ra nỗi niềm luyến tiếc về vẻ đẹp yên bình, thơ mộng của làng quê đang dần bị biến đổi dưới sự tác động tiêu cực của con người. Đó chính là tấm lòng của một người con luôn hướng về quê hương và nhận thấy những đổi thay hằng ngày, trong đó, có những điều mãi mãi mất đi không bao giờ tìm lại được.
4.2. Con người nạn nhân trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
Phê bình sinh thái đã thể hiện rằng tự nhiên cũng có địa vị của nó: “Mặc dù con ngườiđã bỏ ra bao nhiêu nỗ lực để giữ cho mình cái địa vị thống trị, thì có phải tự nhiên chỉ mang một thân phận lệ thuộc hay không khi thực sự chúng ta đã và đang tiếp tục được nó nhắc nhở lại về một thứ địa vị thực sự thông qua mỗi trận động đất, mỗi lần núi lửa phun trào, những ngôi sao chổi vụt qua, cũng như việc không ai có thể dự đoán được một cách chính xác sự thay đổi thất thường của thời tiết”6.
5 Sương Nguyệt Minh, Đi qua đồng chiều (2005), Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 89
6 Rigby K. (2014), Chapter 7 : “Ecocritisim”, Introducing Critism at the twenty – First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội






Trong văn học thế giới, từng có rất nhiều nhà văn viết về những trải nghiệm trước sự khắc nghiệt của tự nhiên.Có thể kể đến nhà văn tiêu biểu là Jack London với những tác phẩm như: Tiếng gọi nơi hoang dã, Tình yêu cuộc sống, Nhóm lửa… Ông đã mô tả cuộc sống của người dân vùng Bắc cực, quanh năm phải đối mặt với cái giá buốt, tuyết phủ, với những thử thách của tự nhiên. Văn học thời kì sau cũng thể hiện sự khắc nghiệt của tự nhiên nhưng lại mang tính thời sự rất rõ khi vấn đề biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính, động đất, sóng thần… ngày một gia tăng. Các nhà văn với trách nhiệm nghề nghiệp và thiên chức của mình đã không rời xa các vấn đề mang tính toàn cầu này.
Việt Nam là một nước nông nghiệp và bởi vậy, tự nhiên có vai trò quan trọng đối với cư dân nông nghiệp. Con người vừa cải tạo tự nhiên theo hướng có lợi nhưng con người cũng âu lo trước những biến đổi của tự nhiên. Ngày trước, bước chân ra, con người phải “trông trời trông đất trông mây”, phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, con người chủ động hơn trong canh tác, thu hoạch… Nhưng con người cũng  đang đối mặt với những vấn đề về sự khắc nghiệt của tự nhiên như: hiệu ứng nhà kính, ngập mặn, khô hạn, động đất… Con người  tồn tại và phát triển trong, cùng và với môi trường tự nhiên. Khi chỉnh thể sinh thái của tạo hóa bị hủy hoại thì sự sống của bản thân con người tất sẽ bị đe dọa cả thể chất lẫn tinh thần7.
Lũ lụt vẫn là thảm họa kinh hoàng của con người ở khắp nơi trên thế giới. Điều này đã được thể hiện trong các tác phẩm văn học từ xưa đến nay. Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh trong kho tàng văn học dân tộc không chỉ là một câu chuyện về tình yêu mà còn phản ánh quy luật dâng nước lũ hằng năm. Ngay từ thời xưa, con người đã ý thức được sức mạnh và nỗi vất vả của con người khi đối mặt với sự khắc nghiệt của tự nhiên. Về sau này, truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn cũng thể hiện nỗi khốn
khổ của con người trước hiện tượng lũ lụt, đê vỡ. Giai cấp thống trị bóc lột về mọi mặt, cộng với đê vỡ, nước lũ dâng cao, cuộc sống của người dân đang bị đẩy vào bước đường cùng.
Truyện ngắn Tiếng lục lạc trong đêm của Sương Nguyệt Minhvẽ ra khung cảnh hỗn loạn của con người trong cơn lũ. “Nước ngập mênh mông, củi khô, cành cây tươi,rều rác, gà chết trôi lều bều trên sông Đáy. Rồi vỡ đê nước tràn vào làng Yên Hạ, làngchìm sâu dưới nước”8. Sau khi cơn lũ đi qua, mọi người vẫn chưa thể khắc phục ngay hậu quả được, họ kể cho nhau nghe những câu chuyện kinh hoàng trong cơn lũ “Nhà nọ ở xóm trên, nước lụt mấp mép mái bằng, phải đưa cả người cả con trâu nái lên sân thượng. Bây giờ, nước rút không tài nào đưa trâu xuống được, suốt ngày nó đóng móng cồng cộc, ỉa đái trên mái bằng… Người lại nói: Buổi sáng hôm bão tan, ở xã dưới, ông lão kéo vó bè kéo phải một người đàn bà chết ngồi”9.
7 Nguyễn Thị Ánh Nguyệt, Con người và tự nhiên trong văn xuôi VN sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, trang 117
8 Sương Nguyệt Minh, Mười ba bến nước (2003), Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 45
9 Sương Nguyệt Minh, Mười ba bến nước (2003), Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 49






Tự nhiên nhắc nhở con người về sức mạnh của mình. Con người cần từ bỏ thái độ cao ngạo, làm bá chủ đối với tự nhiên. Điều này cũng đã được Ph. Engels chỉ ra “Không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với tự nhiên. Bởi vì cứ mỗilần ta đạt được một thắng lợi, là một lần giới tự nhiên lại trả thù chúng ta”10. Sáng tác của nhà văn Sương Nguyệt Minh đã thể hiện sự trả giá của con người trước những hành động ngỗ ngược với tự nhiên.
Những gì đang diễn ra khiến tự nhiên dường như bị tổn thương và tự nhiên cũng đang phản ứng lại với những hành vi của con người. Đó có thể là sự rời bỏ những nơi quen thuộc, chứa chan tình cảm giữa tự nhiên và con người như trong truyện ngắn Chim sâm cầm lại về. Khi con người cố tình tận diệt, săn bắt vô tội vạ chim sâm cầm để bán cho các nhà hàng đặc sản thì những mùa đông sau đó, chim sâm cầm không về. Động vật cũng có tình cảm, có cách nghĩ của mình, nhận ra nơi nguy hiểm, chúng không về nữa là lẽ tất nhiên. 
Con người đã  tự tay phá vỡ mối quan hệ gắn bó yêu thương với tự nhiên để trở thành những kẻ hủy hoại môi trường sống của nhiều loại động thực vật. Truyện ngắn Chuyến đi săn cuối cùng  của nhà văn Sương Nguyệt Minh đã phản ánh một hiện thực rằng con người đang đào núi, phá rừng kết hợp săn bắn theo kiểu tận diệt đã gieo rắc những nguy hiểm lên đời sống của động vật. Ngôi nhà xanh của chúng không còn, thức ăn ngày càng khan hiếm thì việc quay lại phá làng cũng là một hệ quả tất yếu kéo theo. “Nương ngô xanh đang độ bắp đọng sữa, có bắp trổ sớm, râu bắt đầu heo héo cũng bị vặt tóac bẹ, đạp gẫy rạp cây, bắp non bị gặm nham nhở rơi lỏng chỏng” 11.





Phật giáo nhấn mạnh giết hại động vật là tạo nghiệp cho mình. “Tất cả chúng sinh đều có ân với mình, làm sao có thể giết chúng để ăn? Giết hại sinh mệnh tức là tạo nghiệp ác, nhất định sẽ nhận lấy báo quả sinh tử”. Truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh đã thể hiện những cảnh báo về hành vi giết hại động vật. Trong truyện ngắn Nơi hoang dã đồng vọng, con người trở thành nạn nhân trước những hành động tàn sát, mua bán động vật hoang dã. Con người muốn ăn đặc sản, họ đổ xô tìm những món lạ như óc mèo, bao tử mèo, cáo, trăn… và chính họ phải đối mặt với những vấn đề sinh thái: chuột tràn lan, phá phách mọi thứ.  Bởi những chú mèo diệt chuột đang nằm trong các cũi sắt chờ làm thức ăn cho con người. Bà chủ nhà hàng đặc sản ấy cũng phải trả giá cho những hành vi mua bán, giết chóc động vật hoang dã. Một đêm mưa gió, cây cối quật đổ bể nuôi rắn, rắn túa ra khắp vườn, cầu thang, giường ngủ, một con rắn răng còn sắc nhọn đã gặm vào bắp chân bà chủ. Bà chủ không chết nhưng bắp chân cứ teo dần. Có thể nói rằng “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”, nhà văn Sương Nguyệt Minh đã xây dựng các chi tiết mang tính ám ảnh cao, nhất là chi tiết Lài mang cơm cho bà chủ bị liệt, lần nào Lài cũng đầy ám ảnh với bầy chuột.  “Từng con, từng con chuột chùi chũi dưới ống cống ngầm chui lên. Con nọ nối đuôi con kia lốc nhốc. Mũi đỏ, đít đỏ, lông xám, mốc thếch, lại có con cụt đuôi. Chúng ghếch mõm. Chúng thao láo mắt nhìn chị. Chúng tản ra, dò dẫm trên nền cỏ đầy sương, bò trên bàn ăn, tìm những mẫu thịt, miếng xương còn sót lại. Chúng bò qua bụng, nghếch mõm, vênh váo nhìn cáo, trăn, mèo… nhồi trấu. Những con to nhất leo nhoăn nhoắt lên nóc chuồng mèo… Lũ mèo trong chuồng ngơ ngẩn như điếc, như mù, như câm, mặc sức cho lũ chuột hoành hoành”12.Quy luật sinh thái đang bị phá hủy bởi nhu cầu hưởng thụ của con người. Khi trăn, cáo, mèo… trở thành thức ăn của con người thì chuột mặc sức tung hoành và dường như chúng không sợ cả con người, dám tấn công lại con người.  “Trong ánh điện yếu vàng ệch, chị nhìn thấy lũ chuột đang gặm cái chân gỗ đặt bên giường bà chủ. Một con chui vào trong, chỉ còn thấy cái đuôi lấp ló thò ra. Ba bốn con nữa châu đầu vào mỏm chân teo của bà… Bà chủ giật thót ú ớ kêu không thành tiếng . Bà nhìn mỏm chân cụt đã teo: Chuột gặm nham nhở, xương chìa ra trắng hếu”13. Chính mẹ của Lài cũng bị rắn cắn chết khi cha Lài làm thợ bắt rắn chuyên nghiệp. Rắn xổng khỏi hom và cắn vào tay mẹ Lài khi bà vào bếp nấu ăn. Suốt những năm tháng sau đó, cha Lài lúc nào cũng buồn bã, đứa con gái bé nhỏ thì không hiểu vì sao lại mất mẹ. Ông không thể nào trả lời được câu hỏi của con: “Cha ơi. Mẹ con đâu? Mẹ con đâu?”. Con gái ông quá bé bỏng, ông không thể nào trả lời tàn nhẫn về sự thật với con. Đó là mất mát mà ông không thể nào bù đắp cho con mình suốt những năm ấu thơ và cả cuộc đời. Kết thúc tác phẩm, Lài mải miết vùng chạy cố vượt thoát khỏi nơi khủng khiếp như địa ngục ấy trong sự hoảng hốt, ám ảnh. Đến khi về với cha mình, Lài lại nhìn thấy đám mộng mạ mới gieo: Phân chuột, vỏ trấu, vết chân chuột chăm be bét mặt ruộng. Con người càng săn bắt mèo, rắn… bán cho các nhà hàng đặc sản thì hệ cân bằng sinh thái càng nhanh bị phá hủy.
Con người rơi vào những bi kịch thê thảm trong hành trình săn bắt động vật hoang dã. Truyện ngắn Chim sâm cầm lại về thể hiện rất bi kịch của nhân vật khi bất chấp tất cả để dồn đuổi muông thú. Mải bắt chim sâm cầm đầu đỏ để bán cho nhà hàng đặc sản mà hắn đã bỏ thằng Cò, đứa con bị thọt chân từ bé, lại không biết nói trên thuyền giữa sông nước. Giữa sương mù dày đặc, hắn mất phương hướng hoàn toàn, hắn không biết chiếc thuyền chỗ nào, đầu óc hắn mụ mẫm và tối tăm lại. Gần tối, hắn dạt vào bờ, trên tay vẫn cầm chim sâm cầm đầu đỏ. Còn thằng Cò, đứa con trai của hắn thì biến mất hoàn toàn. Bóng tối đã phủ lên cuộc đời hắn với những nỗi đau day dứt đến hết cả cuộc đời. Làm thế nào để tìm lại đứa con tội nghiệp của hắn, làm thế nào để quên đi những nỗi đau này? Vì cái lợi trước mắt mà hắn đã trả giá quá đắt.



 Ông chủ trong tác phẩm Mùa trâu ăn sương trong lúc làm trâu đã bị trâu đá vào bộ phận sinh dục, nó còn bổ móng vào sống lưng khiến ông bị liệt và cấm khẩu. Từ đó, ông chủ sống như chiếc bóng mờ nhạt trong nhà, lê lết với đôi chân liệt, câm lặng. 
 
Chàng thạc sĩ tương lai cũng vì mưu sinh mà vào lò mổ làm thêm. Ngày gà gật, tối đến lại phụ mổ trâu, sáng hôm sau đến lớp máu me vẫn còn dính đầy trên áo. Kết cục chàng phải về quê trong đau buồn, tổn thất về sức khỏe và tinh thần. Vì có men rượu, không làm chủ được hành động, anh xin dùng búa bổ vào đầu con trâu, nhưng búa bị trượt xuống trán, con trâu lồng lộn theo phản ứng tự vệ vặc đầu húc, cái sừng đánh đúng vào hạ bộ và bụng dưới. Những người thợ mổ trâu ấy đang trả gía cho hành động giết mổ trâu của mình.
Những trang viết của Sương Nguyệt Minh khắc sâu những bi kịch của con người khi trực tiếp hủy hoại môi trường sinh thái. Con người trở thành nạn nhân trước những thảm họa thiên nhiên. Động vật hoang dã có không gian sống riêng của mình, khi con người tàn phá ngôi nhà của chúng, tận diệt chúng, phản ứng của mỗi loài vật là khác nhau, điều này thể hiện trong bi kịch của nhân vật. Điều ấy cảnh báo con người về cách hành xử đối với tự nhiên.Con người cần phải tôn trọng tự nhiên, hài hòa với tự nhiên. Lão tử có lẽ là triết gia đầu tiên, cố gắng đi tìm nguyên nhân sâu xa sự xa đọa của con người. Ông chủ trương vô vi. Chữ vô không có nghĩa là hoàn toàn không, vô vi không phải là hoàn toàn không làm gì cả mà là đừng làm gì trái với luật của tự nhiên và vũ trụ. Ngày nay, đứng trước những nguy cơ sinh thái, con người cần cảnh tỉnh và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên.
4.3. Sự hòa điệu giữa con người và tự nhiên
Từ xa xưa, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên rất gần gũi. Với đời sống nông nghiệp, thiên nhiên gắn liền cuộc sống sinh hoạt và tâm hồn của con người. Điều này được thể hiện rất rõ trong cả văn học dân gian và văn học viết.
Truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh đã biểu hiện những cung bậc hòa điệu giữa thiên nhiên và con người. Đó là sự tìm về thiên nhiên để cảm nhận sự bình yên trong tâm hồn. Người họa sĩ trong Hoàng hôn màu cỏ biếc cảm nhận được bấy lâu nay, giữa phố xá ồn ào, anh chưa cảm nhận trọn vẹn hết vẻ đẹp của cuộc sống cũng như những nốt huyền giữa cuộc đời:
“Bỏ lại sau lưng những đèn xanh đỏ
những nhà sáng loáng kiêu sa
những bụi bặm ồn ào phố xá
những chen chúc cuồn cuộn dòng đời
Ta trở về hoàng hôn
lặng im nghe chiều gọi
lặng im nghe mùa đi.
Ta trở về hoàng hôn…”
(Những câu thơ trong truyện ngắn này, tác giả trích trong tập Mười nghìn khát vọng và tập Làng đảo của nhà thơ Nguyễn Hữu Qúy)

Ở đó, con người cứ sống lăn lóc như con ốc, con cua, như hạt lúa củ khoai… đã thu hút nhân vật tôi. “Tôi chìm vào hoàng hôn trên sông… Sóng lăn tăn đuổi nhau. Lá trang lá súng chao nhẹ dập dờn. Cuống hoa súng nhô cao lên mặt nước, cánh hoa trắng ngà bật tung. Hương thoảng dìu dịu lẫn mùi cỏ rược nồng nồng”14. Ở truyện ngắn này, Sương Nguyệt Minh đã thể hiện ngòi bút tinh tế khi miêu tả thiên nhiên. Đó là một thiên nhiên tràn ngập sắc màu, một thiên nhiên yên bình với những con người chân chất, thật thà.
Có những giây phút con người phải ngỡ ngàng trước cảnh sắc của thiên nhiên. “ Bên ngoài đám lá trang, lá súng là một cái gò nổi nhỏ mọc đầy tre ngà. Chao ôi! Cò trắng là cò trắng. Một màu trắng phau phau đến nhức mắt. Con đứng dưới đất, con đậu ngọn cây, con đung đưa trên cành. Đẹp thật! Đẹp hơn cả bức tranh thủy mặc treo trên tường nhà tôi”15. Thiên nhiên với những vẻ đẹp riêng giúp nhân vật quên hết những day dứt, bâng khuâng, khắc khoải của cuộc sống. Nhân vật Gấm cảm nhận được hơi thở của mình đượm mùi hoa sen, hoa súng. Tuổi thơ cô đắm chìm trong hương bưởi, hương chanh, mùi thơm lá sả ở làng, ở đồng cỏ, cảm nhận được mình mang dáng hình của núi Ngọc Mỹ Nhân. Vậy mà có những lúc, nhân vật vẫn cảm thấy ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của thiên nhiên quê nhà. “Ngỡ ngàng quá, tôi thấy một bông hoa súng rất đẹp đặt ngay trên mũi thuyền. Cọng hoa dài, cánh màu trắng như ngà hơi bung ra, nhìn đã thấy nhụy hoa vàng lấm tấm phấn ở trong. Nước đầm Vực lúc sớm mai trong xanh, trông rõ cả ngó sen trắng dưới nước. Mặt trời nhô lên, nắng sớm tràn đến tận đường chân trời”16.
Con người tìm về thiên nhiên như một cố nhân. Bởi thiên nhiên lưu giữ những kỉ niệm tươi đẹp vẹn nguyên dẫu thời gian cứ cuốn trôi đi năm tháng.Truyện ngắn Ngày xưa nơi đây là cửa rừng, thiên nhiên như người bạn lâu năm mà mỗi lần trở về con người cảm thấy thổn thức và như sống lại quá khứ. Thiên nhiên chứng kiến những thay đổi trong cuộc đời con người “Cây sồi già đã chứng kiến khoảnh khắc bồng bột, cuồng nhiệt của tôi và Sinh từ ngày xưa ấy, chứng kiến mọi đổi thay ở cửa rừng”17.  Lần nào đi ngang qua cây sồi già, nhân vật cũng rưng rung dòng cảm xúc “Ngày xưa lại dưng dưng hiện về. Ngày xưa ơi! Ngày xưa nơi đây là cửa rừng. Cửa rừng hun hút gió. Gió thổi. Gió thổi hoài. Tôi ngước nhìn lên. Cây sồi già đang trở mình rung lá”18. Thiên nhiên chứng kiến, lưu giữ và như vỗ về con người để họ tìm lại bình yên.
Ta có thể nhận ra những dãy núi mờ xa trong khói lam chiều gợi nỗi nhớ da diết đối với những người xa quê trong truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh. Hình ảnh núi đồi trong hoàng hôn gợi vẻ đẹp mê đắm lòng người. “Hoàng hôn đã màu cỏ úa trùm lên đỉnh núi con Rùa và dãy Tam Điệp. Xa xa nữa là núi Ngọc Mỹ Nhân mờ nhòa trong hoàng hôn đang lụi dần” 19. Cuộc sống của người dân quê gắn bó với núi đồi, sinh hoạt theo dòng chảy của thiên nhiên. Họ cảm nhận được gió núi thổi rười rượi trên mặt đầm đang thẫm dần. Âm thanh của tiếng mõ trâu lốc cốc lẫn tiếng sáo réo rắt từ chân núi vọng đến. Đứng trước khung cảnh thiên nhiên này vào buổi hoàng hôn, tâm trạng nhân vật trôi miên man vào nhiều dòng hồi ức.
Thiên nhiên còn gợi lại khoảnh khắc lãng mạn, những phút giây nồng ấm trong tình cảm đôi lứa. Nhân vật người chồng trong truyện ngắn Đêm thánh vô cùng sau chuỗi ngày mỏi mệt với cuộc sống hiện tại đã hồi tưởng về những ngày yêu nhau, cùng nhau lang thang trên những con phố đêm đến nhà thờ xứ đạo. Đặc biệt là đêm giáng sinh ở Sa Pa mù sương “những ngọn núi hình răng cưa và thứa ruộng bậc thang chìm vào đêm đông lạnh lẽo. Khi sương mù như tấm voan mỏng nhẹ trắng đục trùm lên nhà thờ đá cổ Sa Pa rêu phong, tôi vẫn nhận ra màu xám bạc và vẻ trầm tư đến cô độc”20. Thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp của một cô gái kiêu sa có dáng vẻ trầm tư, khiến người đọc vừa muốn chiêm ngưỡng, vừa muốn lại gần.
Có thể nhận thấy, dòng sông, bến nước xuất hiện nhiều trong truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh. Sông chứng kiến và chia sẻ những yêu thương, cả những mất mát, đau thương trong cuộc đời nhân vật. Trong Dòng sông Trinh Nữ, những thay đổi trong tâm hồn Liên, cô gái mới lớn được phản chiếu dưới dòng sông. “Cô đứng nhìn đồng quê, bờ bãi, dòng sông và nhìn mình. Vẫn như hôm qua? Không! Dòng sông đầy hơn, còn đồng quê trắng nước. Và cô? Trời ơi! Cô đã thành thiếu nữ”21. Sông cũng nhìn thấy những nỗi đau dai dẳng và thầm lặng của những người như Mây trong Người ở bến sông Châu. Trở về từ chiến trường với đôi chân không còn lành lặn, ngày trở về cũng là ngày người yêu lấy vợ. Bi kịch ấy, Mây nuốt nước mắt vào trong. Dòng sông cũng hiểu những tâm tư trong lòng người y sĩ Trường Sơn ấy nên cũng thao thức cùng  “Đất trời như giao hòa một màu bang bạc. Muôn triệu vì sao chi chít, nhấp nháy, rắc đầy xuống bến sông… Mùi hương cỏ mật lẫn vào mùi hương nồng nàn của đất phù sa dậy lên. Sông Châu thao thức. Sóng vỗ về, rì rầm bài ca ngàn xưa của đất trời”22. Sông cũng chứng kiến những tháng ngày chiến đấu trong quân ngũ, cả sự sinh ly tử biệt đau đớn của đời người. Trong truyện ngắn Bên dòng Tonle Sap, khi đứng bên dòng sông, Kiên nhớ lại những ngày tháng gian lao cùng đồng đội. Bọn Kiên đã từng chèo thuyền, thả lưới đánh cá, ngụp lặn, đùa giỡn với dòng sông. Và con sông xưa ôm ấp vỗ về những thằng trai đánh giặc quanh năm khô hạn ở trong lòng. Dòng sông đã ôm ấp trong lòng nó bao kỉ niệm xanh mãi với thời gian. Để khi gặp lại Sa Ly, người con gái luôn ngự trị trong trái tim Kiên qua bao năm tháng, “cái bến nước ngày xưa lại vang vọng trong lòng Kiên”23. Lòng Kiên lại nôn nao những nỗi vui buồn khó tả, ký ức ngủ quên lại lần nữa thức giấc…
20 Sương Nguyệt Minh, Dị hương, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, trang 77
21 Sương Nguyệt Minh, Người ở bến sông Châu,Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, trang 245
22 Sương Nguyệt Minh, Người ở bến sông Châu,Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, trang45
23 Sương Nguyệt Minh, Dị Hương , Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, trang 178












Thiên nhiên hiện hữu trong tác phẩm của nhà văn Sương Nguyệt Minh vừa thân thương, gần gũi như người thân trong gia đình lại vừa xen lẫn những cảm xúc nuối tiếc, níu kéo… trong cuộc đời của nhân vật. Bởi vậy, mối hòa hợp giữa thiên nhiên và con người trong tác phẩm của nhà văn đã đạt đến độ cao, thiên nhiên sống cuộc sống của mình và tỏa bóng trong cuộc đời mỗi con người.
1.      Kết luận:
Mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người được thể hiện khá rõ trong truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh. Con người vừa cải tạo lại vừa tàn phá thiên nhiên một cách vô tội vạ, không chỉ ở các đô thị mà cả ở nông thôn vốn yên bình xưa nay. Những trang viết của nhà văn đã thể hiện sự cảnh báo về hiểm họa hủy diệt môi trường sống của chính con người. Chúng ta cần thay đổi nhận thức về mối quan hệ và cách ứng xử giữa con người với thiên nhiên. Con người cần tôn trọng sự tồn tại và những quy luật riêng của tự nhiên. Bên cạnh đó, truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh cònthể hiện sự hòa điệu, gắn bó giữa thiên nhiên và con người. Thiên nhiên như một cố nhân, một người bạn không thể tách rời trong cuộc đời mỗi nhân vật. Con người tìm về thiên nhiên như được sống lại những khoảnh khắc tươi đẹp của đời người, ở đó có những dấu yêu, những kỉ niệm tưởng đã bị phủ bụi thời gian trở nên lung linh, ngời sang. Phải chăng, đó chính là thông điệp tác giả muốn gửi đến chúng ta: tìm về thiên nhiên để xanh hóa cuộc đời, để bớt những bon chen, xô bồ của cuộc sống hiện đại. Bởi vậy, những trang viết của nhà văn đã chạm sâu vào những vấn đề sinh thái. “Nếu một tác giả không có lối đi riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn được” (Tsê khôp). Điều ấy đã thể hiện được tiếng nói riêng trong những trang viết về mối quan hệ giữa tự nhiên và con người của nhà văn Sương Nguyệt Minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Glotfetly C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocritiicism Reader. Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University   of Georgia Press xv – xxxvi, p.xxi.
[2]. Nguyễn Thị Tịnh Thy, Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương, nhà xuất bản khoa học xã hội, trang 148
[3]. Cao Minh (2014), Nhà văn quân đội Sương Nguyệt Minh: Văn xuôi sẽ có vụ mùa bội thu, Địa chỉ: http://www.tin247.com
[4]. Hà Chi (2015), Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Văn chương phải chạm tới thân phận con người, Báo Phụ nữ, Địa chỉ: http://phunuonline.com.vn
[5]. Nguyễn Hoàng Vân Anh (2009), Đẹp dị biệt từ Dị Hương, Địa chỉ: http://www.vanchuongviet.org



Thông tin tác giả
Họ và tên: Đỗ Thị Ngọc Thanh
Đơn vị: Lớp Cao học Văn học Việt Nam k18,  Khoa Ngữ Văn,
Trường Đại học Quy Nhơn
Địa chỉ: 628, Võ Nguyên Giáp,Phường Trương Quang Trọng, Thành phố Quảng Ngãi, Tỉnh Quảng Ngãi
Mail: ngocthanh@htkqng.edu.vn
                 Số điện thoại: 0978676017           


* Nguồn: Dự thảo Kỷ yếu Hội nghị NCKH Ngữ văn năm 2017, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Quy Nhơn
Bình Định, tháng 5 năm 2017

0 nhận xét:

Đăng nhận xét