Trên văn đàn văn học Việt Nam, Nguyễn
Ngọc Tư được biết đến là một cây bút trẻ tài năng đầy phong cách của vùng quê
sông nước Nam Bộ. Chị sớm khẳng định được vị thế của mình qua những sáng tác
truyện ngắn với những câu chuyện rất tình về đất và người Nam Bộ. Vẫn tiếp tục
khai thác đề tài về mảnh đất quê hương nhưng trên một trải nghiệm mới về thể loại
– tản văn, với giọng điệu nghệ thuật riêng làm nên phong cách mang tên Nguyễn
Ngọc Tư. Mọi tìm hiểu, nghiên cứu về giọng điệu nghệ thuật cũng phần nào định
hình nên phong cách văn chương của tác giả nữ này.
Giọng điệu nghệ thuật là một yếu tố
quan trọng của phương thức nghệ thuật, giọng điệu mang tính chất chủ quan của
nhà văn. Chính vì vậy, nó góp phần tạo nên phong cách nhà văn. Theo Từ điển
thuật ngữ văn học, “Giọng điệu là
thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng
được miêu tả, thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc
điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca châm
biếm.” [2,tr 122]. Cũng nói về giọng điệu, Trần Đình Sử trong Một số
vấn đề về thi pháp học hiện đại cũng cho rằng: “Phân tích tác phẩm mà bỏ qua giọng điệu tức
là tước đi cái phần quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo của nhà văn”.[4, tr
27]. Giọng điệu với tư cách là một yếu tố thẩm mĩ, một phương tiện nghệ thuật để
nhà văn truyền đi những tín hiệu thẩm mĩ để người đọc nắm bắt và giải mã đặc điểm
nghệ thuật của tác phẩm.
Như vậy, giọng điệu là yếu tố đặc
trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm văn học. Người đọc có thể nhận thấy
chiều sâu tư tưởng thái độ, phong cách, tài năng của nhà văn thông qua giọng điệu.
Khảo sát ba tập tản văn Yêu người ngóng núi, Gáy người thì lạnh và
Đong
tấm lòng của Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy xuất hiện ba giọng điệu là: giọng
dân dã mộc mạc, giọng hài hước, “tưng tửng” và giọng suy tư, chiêm nghiệm. Nguyễn
Ngọc Tư không sử dụng đơn nhất một giọng điệu cho tác phẩm của mình mà luôn có
sự đan xen, hoà quyện các giọng điệu tránh cảm giác nhàm chán cho người đọc và
cũng từ đó ta thấy được tài năng của nhà văn trong sự vận công sáng tạo.
1.
Giọng dân dã mộc mạc
Đây là kiểu giọng điệu chi phối hầu
hết các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Chất giọng này ăn sâu vào máu thịt như
chính cách sống của người dân nơi đây. Một Miền Tây dân dã mộc mạc nuôi dưỡng một
tâm hồn giản dị mộc mạc cũng là lẽ đương nhiên. Chị nói ra giọng của quê hương,
giọng của chính chị trong cách nhìn về thiên nhiên và con người quê hương mình.
Chất giọng dân dã, mộc mạc trước hết
được biểu hiện trên các tản văn viết về thiên nhiên Nam Bộ. Đó là những trang
viết về những miệt vườn trái cây “Tháng
hai, vài thứ cây bên đường vào mùa lẫm liệt. Chôm chôm chín như thắm lửa suốt
cành. Gòn đang ra trái, chỉ trái là trái, trụi nhánh. Mấy cây còng già trăm năm
tuổi trước trường dòng vắt nhựa nuôi thêm mùa bông nữa. Và bàng đỏ loang trên từng
tầng lá, thanh thản như người già biết trước thời khắc lìa đời, chậm rãi thay
áo lụa điều chờ cơn gió nào tới đón đi.”(
Xứ cây)[7; tr 123]. Câu văn
nhẹ nhàng, mang theo làn gió dịu dàng tươi mát của miệt vườn. Những loài cây được
trồng từ mảnh đất cha ông một thời lửa đạn giành lấy, được chăm sóc từ những
đôi bàn tay của những người đã từng chống giặc cứu đất, từng ngã xuống vùi đống
tro tàn vào đất. Cây và đất thấm thía tình người, niềm đau và nỗi buồn của những
người đã từng ngã xuống. Dòng sông mang nặng phù sa nuôi đất và cây cỏ chứa phần
máy thịt cha ông cứ mãi vọng về lời dặn dò con cháu về tình yêu đất mình sống,
cây mình trồng. Tất cả được nói lên bằng cái giọng trong trẻo, ân tình đa âm đa
sắc của nữ sĩ miệt vườn.
Cái giọng điệu dân dã, mộc mạc được
nuôi dưỡng trong chị và được lan tỏa ra những câu văn nghe như là những câu
hát, như điệu hò của vùng sông nước Nam Bộ bởi những câu văn được viết giàu nhạc
điệu như là thơ, “Mảnh mai mình hạc, bông
lau vươn cao óng mượt, trắng muốt giữa ngút ngàn bông sậy bạc đầu, nhảy thành
dòng dập dờn trong gió. Trên cái nền dòng sông bông chín, ông trời mặc sức vẽ
gió, vẽ nắng lên.”( Chập chờn lau sậy)[5; tr 15]. Thiên nhiên Nam Bộ như hút
hồn bao du khách gần xa. Chất trữ tình còn thể hiện ở nhan đề các tản văn: “ Yêu người ngóng núi”, “Nước vẫn vờn quanh
thắt lưng”, “Dột từ nước mắt…”, Nhớ ơi nguội bớt cho nhờ với”…. Thoạt đầu
nghe ngợ ngợ là những câu thơ hoặc là nhan đề của một bài thơ. Đó là những hình
ảnh thơ mộng, gợi lên ý thơ làm nao nao cảm xúc người đọc. Người đọc có thể chênh
chao, sao động, đi theo dòng cảm xúc của chính mình. Hay ở chính những câu văn kết hợp vừa kể vừa
tả làm cho câu văn bớt đi tính khô khan và dễ dàng tiếp nhận hơn “Bỗng thấy thiên nhiên thật nhọc nhằn, đẹp để
xoa dịu, bù đắp cho những vết xước do con người gây ra cho con người. Hoa dại
tím nhằn ngặt. Một tán cây bỗng rực đỏ giữa biển màu xanh bên dưới vực. Rêu óng
mượt trên mảng tường biệt thự bỏ hoang. Nắng trong trẻo dịu dàng, không gợi
chút khói. Và mây mù nữa, chảy ròng ròng xuốt một buổi chiều và cả những hôm
sau.”( Còn lại chỉ mây mù)[5; tr
60]. Tất cả sự kết hợp về câu chữ, ca từ, nhạc điệu làm nên khúc nhạc tình quê
nhẹ nhàng và réo rắt chảy vào lòng người.
Nguyễn Ngọc Tư viết về thiên nhiên
đầy giản dị, mộc mạc và viết về cảnh sinh hoạt của con người cũng vậy. Chất giọng
mộc mạc ấy được khơi nguồn từ những con người nơi đây, những số phận nhỏ bé vẫn luôn sống với những
ước mơ bé nhỏ cùng với nó là những nếp sống văn hóa làm nên sự thảo thơm nghĩa
tình của dân miệt vườn. Đó là người nông dân chân lấm tay bùn “Nông dân bận bụi ngó trời ngay ngáy lo mùa
thất bát, buôn gánh bán bưng cùng với đánh giầy bạc mặt mòn chân cho cuộc mưu
sinh,”(Trần thế)[6; tr 191].
“Hay chủ nhân của kháp nước ven đường chỉ
thản nhiên cười bới lại mớ tóc sương bảo, “lớn lên đã thấy cha mẹ tui đặt khạp
nước ở đây”, ”(Những chân trời khép)[6; tr 123]. Để sau tất cả, trong Diều
băng cuối trời họ mong muốn có cuộc sống điền viên để buông bỏ, nghỉ
ngơi, giũ sạch bon chen, toan tính về với thiên nhiên như cách diều bay về bầu
trời vô định. Ông già nói ra tỉnh queo bằng chính cái giọng của quê hương với từ
ngữ quê hương Nam Bộ không lẫn vào đâu được: “Tôi chỉ khoái dán con diều rồi xách ra ruộng thả chơi”[6; tr 21], “bứt” cánh diều cho nó
về trời, để mấy ông bạn kêu trời
“ thằng cha lãng nhách”. Đó chính là
lời ăn tiếng nói hàng ngày của con người Nam Bộ đi trực tiếp vào văn chương. Chất
văn chương của chị gần gũi với cuộc sống của người dân địa phương từ lời ăn tiếng
nói đến nếp sống văn hóa. Chính điều này đã làm nên chất giọng gần gũi mộc mạc
cho các sáng tác tản văn của chị.
Giọng văn dân dã, mộc mạc là một đặc điểm riêng biệt của Nguyễn Ngọc Tư
được xây dựng trở thành thương hiệu mang tên chị, được chị đưa vào những phong
cảnh thiên nhiên, sông nước làm toát lên tình đất, tình người cũng như nét đẹp
văn hóa của vùng đất Miền Tây Nam Bộ.
2.
Giọng hài hước, “tưng tửng”
Đặc trưng của tản văn là viết về những
cái mắt thấy, tai nghe lúc “trà dư tửu hậu”, những vẫn đề từ nhỏ bé cho đến lớn
lao đều được chị viết sao cho dễ cảm nhận nhất. Cái thành công của chị là viết
về những điều giản dị bằng một giọng văn giản dị được xây dựng từ chất liệu từ
ngữ sinh hoạt bình dân của cư dân sông nước. Giọng điệu xề xòa chất phác, đầy
cá tính của một cô gái mạnh mẽ, lém lỉnh. Khi viết về những vấn đề của cuộc sống,
chị viết dưới cái nhìn hài hước và tự nhận là “tưng tửng”.
Giọng hài hước “ có mức độ phê phán nhẹ nhàng, chủ yếu gây
cười, mua vui, trên cơ sở vạch ra sự mất hài hòa cân đối giữa nội dung và hình
thức, bản chất và hiện tượng, đặc biệt là giữa lý trí và thực tế” [2; tr
114].
Văn của chị không đơn giản là chỉ
có hài hước mà có cả chất “ tưng tửng” theo cách nói của người “nhà quê Nam Bộ”,
nói cho thẳng thắn, nói cho tới cùng, làm sao cho rõ ràng mọi chuyện mới thôi.
Chính vì cái sự thật trần trụi đến đau lòng phải được xoa dịu hoặc làm cho dễ
tiếp nhận nhất bằng cái hài hước cho đỡ “đau”. Ví dụ như trong Sốt
ruột tháng giêng, tiếng cười được tạo ra trong sự đối lập xưa và nay.
Ngày xưa, mâm ngũ quả là những loại trái cây của miệt vườn: mãng cầu, dừa, đu đủ
và xoài thể hiện sự thành kính với ước mơ khiếm tốn “cầu vừa đủ xài”. Ngày nay,
ước mơ gói gọn trong hai chữ “cầu dư”, nên
người ta trưng lên bàn thờ loại trái dư gần với cà độc dược. “Mâm trái cầu dư trên bàn thờ mờ nhạt lòng
thành, lẩn khuất sự tham lam, sự bất kính với vong linh người khuất mặt. Hương
hồn ông bà vốn bó miệng vì sung chát, đu đủ non, giờ chỉ biết ngó thứ trái lạ
mà bọn người sống chết dại không dám rớ.”[7; tr 116]. Từ mâm ngũ quả trưng
ngày tết dần mất đi giá tri đích thực của văn hóa thể hiện sự thành kính dâng
lên tổ tiên thứ trái cây ngon ngọt là thành quả lao động được hái từ vườn nhà,
thì giờ đây chỉ là hình thức thể hiện sự vụ lợi bất kính vì lòng tham của con
người làm mất đi những giá trị văn hóa cha ông. Nói đến đây bằng sự thẳng thắn
pha chút hài hước, nhưng đó chưa phải là tất cả câu chuyện, đúng với cất “tưng
tửng” nói cho đến tận cùng câu truyện, biểu hiện ban đầu là mâm ngũ quả tiếp đến
là những mong muốn sau nén nhang. Đến với lễ hội thay bằng long thành kính cầu
an thì họ cầu danh lợi, sẵn sàng giẫm đạp lên nhau. Xưa đi chùa cầu “ gia đạo
bình an”, nay “bốn chữ gia đạo bình an đứng
sau cùng, làm một được hai, trồng một gặt mười”, “ Bây giờ, lúc rạp mình trước
đức Phật là lúc tâm chúng sinh bất bình an nhất.”[7; tr 116]. Tận cùng của
câu truyện chị muốn nói là: “ Vỡ đê đạo
đức, vỡ đê lòng tin”.
Nói tận cùng đến những dự án giải tỏa
khu dân cư tới những khu tái định cư, Nguyễn Ngọc Tư đã nói bằng sự hài hước,
tưng tửng như thế này: “ Bởi trong khu
quy hoạch, có những con đường nhất thiết phải cất nhà cao ba, hay bốn tầng. nhiều
chiều rủ thằng con đi dạo, chào hỏi người này người kia đôi ba câu, mới hay cả
một con đường không có nhà nào đã từng sống ở đây, trước quy hoạch. Khu tái định
cư này thực chất đã bỏ chữ “tái”ở lại quán phở bò.”. ( Người đi ngang cửa) Trong
khi ý nghĩa thực của khu tái định cư không còn, người trong khu này lại là những
người mới xa lạ. Tái định cư - làm nhà chắc chắn lần hai lại được chị đặt là
“tái” trong tương quan tái chín. Tác giả đã cố tình cắt riêng chữ “tái” ra để
chơi chữ tạo ý hài hước, châm điếm chuyển nghĩa sang từ tái- chín của quán phở
bò. Phải chăng dự án của nhà nước còn chưa chín muồi ở sự tính toán và cũng
chưa thực sự đáp ứng mong muốn của người dân. Dự án chưa “chín” chỉ làm khổ
dân, khổ những mảnh đời nhỏ bé.
Nói đến tận góc ngách của con tim
thì chị không thể không nói ra những tâm sự của chính chị cũng như tâm sự của
bao nhiêu mà mẹ Việt. Những tâm sự đời thường tưởng như nhỏ nhưng sắc lẻm làm
đau bao người mẹ. Làm mẹ là niềm hạnh phúc của người phụ nữ, nhưng trong hoàn cảnh
xã hội đảo điên vì vụ lời, chạy mãi rồi ngã vào hố đen tội lỗi thì hạnh phúc
luôn tồn tại song hành cùng những niềm lo lắng. Lo những mũi tiêm vắc xin thay
vì bảo vệ con mình lại trở thành thứ giết con, lo con ốm lại bị bác sĩ tiêm thuốc
quá liều, lo con đi nhà trẻ bị ngược đãi, bạo hành. Khi con lên tiểu học lại lo
con bị chèn ép vì không đi học thêm thầy, lo hiểm họa của công nghệ hiện đại,
lo ao nước sông hồ, lo đằng sau hũ sữa bột thơm tho là hàng chục chất hóa học,
giết dần con mình. Nên chị đúc rút: “trót
làm phụ nữ Việt, sẽ trở thành anh hùng ngay khi đứa con cất tiếng khóc chào đời”(Phía những người yêu), câu nói
tưởng như đùa mà là thật, lúc này nghe hài mà lại cười ra nước mắt. Chị nói
cho ra sự thật nói hết tấm lòng của chị, không e dè không kiêng nể. Chị không
thể im lặng mãi để những thế hệ trẻ Việt Nam bị hãm hại, và những bậc cha mẹ
mãi lo âu, khiếp sợ. Chị phản kháng, vung vẩy nhưng rồi cũng rơi tõm và vô vọng
bởi cái quy luật khắc nghiệt của xã hội. Nhưng đây cũng là hồi chuông báo động
về một xã hội đầy rãy những hiểm nguy để mỗi bà mẹ phải trở thành “anh hùng” để
che chở cho con mình. Những tưởng hai tiếng anh hùng thiêng liêng và cao quý chỉ
giành cho những người đã anh dũng ngã xuống vì mảnh đất cha ông, để con cháu có
được cuộc sống bình yên. Những giờ đây, một đất nước đã hòa bình mấy chục năm vẫn
cần những anh hùng để đủ mạnh sống giữa những hiểm nguy vô hình của lòng tham
con người. Nguyễn Ngọc Tư đã dốc hết tâm lực nơi đầu ngọn bút mà chia sẻ với từng
“hoàn cảnh” khác nhau trong cõi nhân sinh.
Những vấn đề được đề cập trong các
tản văn đều là những vấn đề mà bất kì ai đều có thể bắt gặp hàng ngày trong cuộc
sống, nhưng để có thể viết một cách thẳng thắn đầy trăn trở và đầy trách móc
như vậy thì không phải là điều dễ dàng. Nhưng trách móc, oán giận cũng chẳng được
gì, vì chẳng ai chịu trách nhiệm và cũng biết đổ lỗi cho ai, nên thôi thì: “ Kinh nghiệm cho thấy, khi không thấy ai chịu
trách nhiệm thì mình lấy trời ra đổ lỗi, cho đỡ đau.”(Những Người chết bâng quơ) [7;
tr 53]. Hay “Cuộc đời đúng là kinh ngạc hết
sức, tưởng là thấu hiểu đến đáy của phi đạo đức rồi, mà đáy vẫn đầy những ngóc
hang ngoắt ngoéo. Đành đổ lỗi cho củ gừng Tàu tẩm độc, ai ăn vào cũng phát
điên”(Vực mở)[7; tr 105]. Người ta vẫn vẫn cố gắng
tìm ra ra một ngươi để đổ lỗi cho những lỗi lầm cần người chịu trách nhiệm và
cho đỡ đau, chỉ có “trời”, lòng người, và “đồ Tàu” – một cách đổ lỗi chung
chung khiến người viết và cả người đọc phì cười với nụ cười méo mó khó coi. Cười
như mếu.
Hài hước đấy nhưng không phải để cười
hả hê, trước nỗi đau mà không thể khóc chỉ có thể cười thì đó chỉ có thể là nỗi
đau sâu kín không thể loại bỏ. “Tưng tửng” không phải là biểu hiện điên khùng
mà để nói ra mọi thứ một cách dễ dàng, chính xác những thói hư, tật xấu, những
sự thật xấu xa được che đậy bằng bề ngoài hào nhoáng, đó cũng chính là cách phản
kháng của chị, và cũng là sự cảnh tỉnh của chị đối với xã hội.
3.
Giọng suy tư, chiêm nghiệm
Cùng song hành với giọng hài hước,
“tưng tửng”, thì giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm cũng chiếm vị trí chủ đạo làm
nên giá trị nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư. Có nhiều ý kiến cho rằng
văn của Nguyễn Ngọc Tư có độ rộng và sâu hơn so với lứa tuổi của chị. Chất trầm
tư, ngẫm ngợi thể hiện rất rõ trong những sáng tác tản văn qua những điều có thật
ở cuộc sống mà chị “nghiệm” ra. Nên trong những trang viết là chất lặng mà sâu
của dòng chảy suy tư, chiêm nghiệm để nhận ra những triết lý sống.
Suy tư chiêm nghiệm là sự suy nghĩ,
phán xét con người và cuộc sống nhờ sự trải nghiệm của cá nhân nhà văn và thường
được thể hiện qua những đúc kết mang tính triết lý. Có thể nói, tản văn Nguyễn
Ngọc Tư được viết từ những trải nghiệm và suy nghiệm rút ra từ cuộc sống.
Trong tản văn Sư tử không ăn cỏ, một
câu truyện giữa hai hình ảnh trái ngược về con sư tử hiền lành “ăn chay” lý tưởng
được xây dựng trong phim hoạt hình và hình ảnh một con sư tử “ăn mặn”đời thực.
Chính điều này là cậu bé thất vọng và điều đó làm chị ngộ ra triết lý về cuộc sống
“Nói về thành kiến thì ai cũng có một
kho”, oán ghét chỉ nằm ở sự khác biệt, dưới cái nhìn của con người đầy rẫy
những thành kiến khi nhìn nhận bất cứ vấn đề gì, thành kiến đôi khi làm cho cái
nhìn về con người và cuộc đời quá khắt khe
sẽ không thấy được muôn mặt của vấn đề, như vậy làm sao có thể cảm thông và
chia sẻ. Bởi trong nhiều vấn đề chị nghiệm ra“Lúc cuộc sống khắc nghiệt buộc người đi chênh vênh lằn ranh tử tế và
không tử tế, họ bước chệch choạc cũng là chuyện tự nhiên. Có ở dưới ao mới biết
không cách nào không ướt áo.”[ 5; tr 129]. Đây phải chăng là triết lý về những
thử thách của cuộc sống với nhân cách con người.
Ân tình là thứ không thể đo đếm,
nên cha ông mình thường hay nói “của ít lòng nhiều” là vậy. Nhưng những thứ ân
tình tốt đẹp chỉ còn là cái của ngày xưa, của cái thuở chia nhau từng của sắn,
Ngày nay, mọi thứ đều có thể đo đếm được bằng tiền. Tiền - gọn, nhẹ, dễ đếm, dễ
mua, dễ bán và cũng dễ dàng thấy được sự “thành tâm”, phong bì càng dày tức người
đó càng “thành tâm” . Điều này được chị thể hiện rất rõ trong Đong
tấm lòng, “Chung quanh người ta
nhìn nhau, đo tấm lòng nhau bằng những mệnh giá của tờ giấy lạnh” [7; tr
77]. Những điều chị thấy tránh sao cho khỏi đau lòng, nếu ân tình, tình nghĩa
được đo bằng những tờ giấy mang mệnh giá, thì chứng tỏ một điều những giá trị vật
chất kia sẽ làm đảo lộn tình cảm con nguời kèm theo nó những những giá trị thuộc
về văn hóa, những ứng xử đẹp mang tên “người” cũng sẽ bị đồng tiền đánh đổ. Từ
đó, tác giả nghiệm ra “Như có những cơn
sóng thực dụng vô hình cứ mãi vỗ vào bờ xóm Chiếc, làm long lở cái gọi là tình
nghĩa.” [7; tr 77]
Nhưng trước mọi vấn đề của cuộc sống, không ai hỏi, không ai dám nói lên
tiếng nói của chính mình để chỉ thấy một cuộc đời chỉ dai dẳng những dấu chấm, dấu chấm lửng, những câu chuyện
thẫn thơ, những vấn đề nửa vời để đáp án chìm đắm trong yên lặng làm nên một thế
giời ngờ vực, hèn nhát. Thương thay cho những người lớn càng lớn lên lại càng
“nhỏ bé” lại. Chính tâm sự ấy được chị thổ lộ trong Những dấu hỏi phai…
“Một cộng đồng im lặng. Và những người
lớn cứ viết trang đời mình bằng vài dấu hỏi ít ỏi, chỉ dấu chấm, dấu phẩy, châm
than và nhiều lắm những dấu chấm lửng thẩn thơ trên giấy. Nghe trẻ con hỏi chuyện
sao trăng trên trời mà nửa sợ nửa thương. Trẻ con ơi, trước khi khôn lớn giùm
ơn chia sẻ ban tặng tụi người lớn chúng tôi sự khao khát… hỏi.”[6;
tr 76]
Trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư luôn
có những chiêm nghiệm, nhấp nháp từ cuộc sống, là lời văn vừa mang tính trữ
tình để làm “mềm” đi, dễ tiếp nhận, dễ lắng nghe nhưng cũng không kém phần “nội
lực” đủ sức công phá vào những vấn đề, đối tượng của cuộc sống. Cùng là kiểu giọng
điệu suy tư, chiêm nghiệm, nhưng ở mỗi tác giả lại có sự khác nhau. Nếu Phan Thị
Vàng Anh là một giọng điệu triết lý sắc sảo trong cách nhìn nhận, đôi khi là lạnh
lùng, sắc lẻm vào từng vấn đề mang tính thời sự, thì Nguyễn Ngọc Tư lại là một
tác giả nữ nhẹ nhàng, đằm thắm trong cách viết, dù là các vấn đề thời sự chị
cũng viết rất điềm đạm. Nhưng tất cả đều được phơi bày ra trước công chúng độc
giả bằng những triết lý nhẹ nhàng sâu sắc thông qua giọng văn hóm hỉnh, hài hước.
Giọng điệu nghệ thuật có vai trò rất
quan trọng trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm cũng như đối với nhà văn. Nó
giúp tác giả trong việc truyền tải dụng ý nghệ thuật cũng như việc lựa chọn đề
tài và phương thức thể hiện tối ưu nhất. Giọng điệu làm nên một không khí xúc cảm
với tình cảm chân thật. Tản văn Nguyễn Ngọc Tư là sự kết hợp đan xen các giọng
điệu văn chương. Nếu giọng dân dã, mộc mạc cho thấy nét đẹp thiên nhiên, con
người Miền Tây, giọng điệu hài hước, “tưng tửng” trong cách viết một vấn đề xã
hội tạo không khí thoải mãi, tự nhiên, thì giọng văn suy tư, chiêm nghiệm mang
lại chiều sâu cho từng tác phẩm. Song song trong cách thể hiện các giọng điệu
càng cho thấy sự độc đáo, tài năng của người nghệ sĩ Nguyễn Ngọc Tư. Với quan
niệm sáng tác khá rõ ràng, Nguyễn Ngọc Tư đến với văn chương bằng một giọng văn
chiêm nghiệm và cách giải quyết vấn đề nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc. Cùng với nó
là những trang văn dạt dào cảm xúc, khiến người đọc phải lắng lòng. Như vậy, có
thể khẳng định Nguyễn Ngọc Tư đã bước đầu thành công trong nỗ lực sáng tạo văn
chương của mình có một chất giọng riêng sống mãi trong lòng độc giả.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.
Trần Hữu Dũng, Đặc sản miền Nam, Địa chỉ: www.viet.studies.info,
[truy cập ngày 25/01/2004].
2.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
(2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
3.
Lê Thị Hường, Tản văn nữ: Diện mạo và triển vọng, Địa chỉ: vannghequandoi.com.vn,
[ truy cập ngày 13/07/2015].
4.
Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi pháp văn học Việt Nam, Bộ
GD&ĐT. Vụ giáo viên, Hà Nội.
5.
Nguyễn Ngọc Tư (2009), Yêu Người ngóng núi , Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí
Minh
6.
Nguyễn Ngọc Tư (2012), Gáy người thì lạnh, Nxb Thời Đại Hà Nội
7.
Nguyễn Ngọc Tư (2015), Đong tấm lòng, Nxb Trẻ Tp Hồ Chí Minh
* Nguồn: Kỷ yếu Hội nghị NCKH Ngữ văn năm 2017, tr 1, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Quy Nhơn
Bình Định, tháng 5 năm 2017
0 nhận xét:
Đăng nhận xét