Xã hội Việt Nam vào thời Xuân Hương sống cực kì hỗn loạn. Đó
là thời kỳ chế độ phong kiến trên con đường thoái trào của mình đã bộc lộ hết những
mặt trái của nó. Bao nhiêu giềng mối trong xã hội đều bị lật tung, đảo lộn;
những thói xấu của giai cấp thống trị từ vua chúa đến quan lại, từ quân tử đến
thầy tu; những hủ tục, tệ nạn trong xã hội… đều hiện lên một cách rõ nét nhất
nhưng suy cho cùng nó vẫn ngự trị và vẫn đủ khả năng kiềm toả mọi sự phản ứng.
Chúng vẫn cố khoác lấy tấm màn rách mướp hòng che mắt mọi người cũng như chính
bản thân mình. Cái xã hội ấy không chờ đợi cũng không ngờ tới một người phụ nữ
như Xuân Hương lên tiếng phê phán, tố cáo. Nữ thi sĩ đã đến với những bước đi
dứt khoát, mạnh bạo và cất lên tiếng nói phê phán hiện thực xã hội một cách sâu
cay, đồng thời vỗ vào mặt xã hội ấy một tràng cười đầy mỉa mai, hằn học.
1. Vạch trần bộ mặt của những kẻ đạo
đức giả
Rất nhiều tác phẩm thơ Nôm của bà đã
lên tiếng đả kích, phê phán, vạch trần bản chất xấu xa, giả dối của giai cấp
thống trị và của những kẻ đại diện cho giáo lí phong kiến. Họ là mẫu người lí
tưởng của xã hội phong kiến với vẻ ngoài thanh cao, đạo mạo, mang trong mình sứ
mệnh truyền bá đạo thánh hiền, gìn giữ kỉ cương xã hội. Thế nhưng xã hội suy
đồi, kỉ cương phép tắc không còn thì họ chỉ là những kẻ khoác áo quân tử mà
thôi, thực chất họ cũng mang cái thân xác phàm tục và háo danh, háo sắc hơn bất
cứ ai. Xuân Hương đã nhìn thấu cái bản chất dâm ô, truỵ lạc của bọn vua chúa,
quân tử đằng sau lớp áo đạo đức ấy. Đối với nữ sĩ, những vị tự xưng là hiền
nhân, quân tử kia chỉ là cái hư danh, đứng trước vẻ đẹp của một người thiếu nữ
thì họ cũng chỉ là những kẻ phàm tục nhất trong những kẻ phàm tục:
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc biếng cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở, ở không xong
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thiếu nữ nằm chơi giữa mùa hè,
vì gió mát “hây hẩy” nên đã thiếp đi
lúc nào không hay khiến lược cài trên tóc cũng bị sổ ra lỏng lẻo, yếm thì trễ
xuống dưới ngực, để lộ ra thân thể tuyệt đẹp nửa kín nửa hở. Tình cờ đi qua,
nhìn thấy cảnh xuân trước mắt, vị quân tử kia cũng nổi lên cái ham muốn phàm
tục, nhưng đã mang danh quân tử rồi nên nào dám làm gì, chỉ có thể lén lút
nhìn, thèm nhỏ dãi nhưng cứ dùng dằng mãi, ở thì không dám làm gì mà đi thì
không đành. Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rõ cái ý nghĩ đen tối lén lút của họ.
Xuân Hương đã cho chúng ta thấy một bộ
mặt giả dối sau lớp áo mũ chỉnh tề của những hiền nhân, quân tử. Một mặt, tác
giả vẽ nên cảnh Đèo Ba Dội cheo leo, hoang sơ nhưng rất
sống động: Một đèo, một đèo, lại một đèo/
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo/ Cửa son đỏ loét tùm hum nóc/ Hòn đá xanh rì lún
phún rêu/ Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc/ Đầm đìa lá liễu giọt sương reo.
Mặt khác, nữ sĩ lại khiến chúng ta liên tưởng ngay tới một bức tranh khác, bức
tranh cơ thể người phụ nữ. Chính nét nghĩa thứ hai này đã có tác dụng thể hiện
rõ ý phê phán của bà đối với những bậc hiền nhân quân tử đạo mạo kia. Bà đã mát
mẻ kính nể họ nhằm chế giễu họ: Hiền nhân
quân tử ai là chẳng/ Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo (Đèo Ba Dội). Đứng trước cảnh đẹp ấy, liệu có mấy ai không muốn
trèo? Cho dù là hiền nhân quân tử đi chăng nữa thì họ cũng chỉ là con người, mà
đã là con người thì tất có cái ham muốn của con người, chớ có tỏ ra đạo mạo
rằng ta đây là quân tử, ta không có cái ham muốn phàm tục của những kẻ tiểu
nhân bởi tác giả đã nhìn thấu bản chất của họ rồi.
Ngay đến cả vua chúa cũng không
ngoại lệ: Hồng hồng má phấn duyên vì cậy/
Chúa dấu vua yêu một cái này (Vịnh
cái quạt I). Cái này ở đây ai cũng hiểu rõ đó không chỉ là cái quạt mà đó
còn là cái bộ phận kín đáo trên cơ thể người phụ nữ. Từ việc mô tả cái quạt
nhưng cũng là mô tả một cái gì khác mà ai cũng hiểu: Chành ra ba góc da còn thiếu/ Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa (Vịnh cái quạt II) và bóc trần bộ mặt
giả dối của vua chúa, hiền nhân với thói dâm dục: Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày (Vịnh
cái quạt I). Xuân Hương đã dùng chính cái mà họ yêu thích nhất, cái trần
tục nhất đặt lên đầu, lên mặt họ: Mát mặt
anh hùng khi tắt gió/ Che đầu quân tử lúc sa mưa rồi còn cất giọng giễu
cợt: Nâng niu ướm hỏi người trong trướng/
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa? (Vịnh
cái quạt II).
Bên
cạnh những hiền nhân quân tử ấy, tác giả còn lớn tiếng phê phán đám nho sĩ dốt
nát, những cậu ấm con quan suốt ngày huênh hoang, vênh váo, học không ra gì mà
cứ đòi làm thơ, ghẹo gái. Trong con mắt của bà, chúng chỉ là một lũ ngẩn ngơ, một
đám dốt nát lại còn lên mặt. Xuân Hương xưng chị và mắng chúng một cách không
thương tiếc:
Khéo
khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại
đây cho chị dạy làm thơ
Ong
non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê
cỏn buồn sừng húc dậu thưa
(Mắng
học trò dốt I)
Ấy thế mà cái
“lũ ngẩn ngơ” ấy lại còn dám dắt nhau đến cửa chiền rồi đề thơ lảm nhảm lên đó:
Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền/ Cũng đòi
học nói nói không nên. Và bà chị
Xuân Hương của chúng ta đâu có để yên cho chúng được tự tác, lên mặt. Bà chỉ thẳng
mặt chúng mà mắng: Ai về nhắn bảo phường
lòi tói/ Muốn sống đem vôi quét trả đền (Mắng học trò dốt II).
Đối tượng mà bà lên án, đả kích sâu
cay nhất vẫn là bọn quan thị và sư mô. Rõ ràng, trong xã hội phong kiến
Việt Nam thời ấy, các sư thầy thật thì ít mà sư hổ mang thì nhiều. Nhà thơ thấy
được tất cả những mặt trái ấy nên bà căm ghét cả chùa lẫn sư. Nữ sĩ nhìn ra
được “sư” ở đây không còn là những người dứt bỏ hồng trần, tâm thanh tịnh, tu
thân mà là những kẻ lòng còn đầy tạp niệm, đội lốt sư tăng để ăn của dân đến
mức béo tròn: Một sư đầu trọc ngồi khua
mõ/ Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am (Hang
Thánh Hoá). Không những thế, chúng còn lười biếng khiến cho sinh hoạt nhà
chùa uể oải bê tha: Quán sứ sao mà cảnh
vắng teo/ Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?/ Chày kình, tiểu để suông không đấm/
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo/ Sáng banh không kẻ khua tang mít/ Trưa trật nào
ai móc kẽ rêu (Chùa Quán Sứ).
Trước cái cảnh chùa không ra chùa,
sư chẳng ra sư đó, Hồ Xuân Hương đã thẳng tay mà đánh vào bộ mặt giả đạo đức
của họ: Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta/
Đầu thì trọc lốc áo không tà (Sư hổ
mang) rồi cất giọng giễu cợt: Tu lâu
có lẽ lên sư cụ/ Ngất nghểu toà sen nọ đó mà! (Sư hổ mang). Bà còn châm biếm sâu cay vào tận bộ mặt hoang dâm của
chúng:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
(Sư hoang dâm)
Ngoài việc khinh ghét và đả kích
những kẻ bất lương núp bóng nhà Phật, Xuân Hương cũng không ngần ngại gì mà tha
cho lũ quan thị vì hám chức hám danh mà vứt bỏ đi “cái xuân tình”, sống trái lẽ
tự nhiên. Bà mỉa mai, châm biếm thậm chí là văng tục, chửi thẳng
vào mặt chúng: Rúc rích thây cha con chuột
nhắt/ Vo ve bét mẹ cái ong bầu/ Đố ai biết được vông hay trốc/ Còn kẻ nào hay
cuống với đầu (Quan thị).
2. Lên án chế độ đa thê phong kiến
Trong xã hội phong kiến Việt Nam xưa
luôn có một quan niệm là “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng” -
một quan niệm cực kì bất bình đẳng đối với người phụ nữ. Không những thế “Chế độ ấy lại được củng cố bằng những học
thuyết sai lạc do những nguỵ nho phụ hoạ và xuyên tạc, càng ngày càng đẩy phụ
nữ xuống địa vị thấp kém đến mất cả nhân cách, mất cả tinh thần tự chủ và đan
vị độc lập!” [6, 340].
Bước chân vào con đường làm lẽ thì
không thể tránh khỏi những tủi nhục, Xuân Hương đã trải nghiệm sâu sắc điều đó
nên bà đã vì mình và bao nhiêu phụ nữ mang thân phận lẽ mọn khác lên tiếng tố
cáo chế độ đa thê phong kiến. Đó là một tiếng chửi mạnh bạo, đầy căm phẫn: Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/ Chém cha cái
kiếp lấy chồng chung (Làm lẽ).
Cũng là một kiếp nữ nhi nhưng sao trớ trêu thay người thì “đắp chăn bông” còn kẻ thì phải chịu cảnh “lạnh lùng”, và Xuân
Hương hiểu rõ vì đâu mà có cảnh bất công như vậy. Chính là vì họ lấy chồng
chung nhưng người ta làm chính còn bà và bao nhiêu người phụ nữ khác cùng chung
số phận với bà lại làm vợ lẽ, làm vợ bé, không có tiếng nói, chịu cảnh ghẻ
lạnh. Bà căm phẫn cái kiếp lấy chồng chung ấy, cái kiếp đã đầy đoạ bà trong sự
cô đơn, tủi nhục. Tiếng chửi của bà chính là một lời nguyền rủa hủ tục phong
kiến.
Không dừng lại ở đó, sau khi cất lên
tiếng chửi đầy tức giận với chế độ đa thê, với kiếp chung chồng ấy, Xuân Hương
còn vạch rõ những bất công của phận làm lẽ: Năm
thì mười hoạ hay chăng chớ/ Một tháng đôi lần có cũng không. Trong hôn
nhân, điều quan trọng nhất trong đời sống vợ chồng là chuyện chăn gối, ấy thế
nhưng hôn nhân của Xuân Hương vốn đã là một cuộc hôn nhân bất công thì tất yếu
đời sống vợ chồng của nàng cũng như bao người làm lẽ khác cũng sẽ không công
bằng. Không nói đâu xa, việc phải chia chồng với người khác là đã đủ tủi hờn
rồi, mà nào có được chia một cách đồng đều, chỉ có “năm thì mười hoạ” mới được ở với chồng, thậm chí “một tháng đôi lần” có khi còn không
được.
Cam chịu tủi hờn, cô đơn để mong một
ngày được chung chăn gối với chồng, được hưởng cái hạnh phúc ái ân trọn vẹn dù
rất thưa thớt, ấy thế nhưng khi được chồng ghé tới thì cũng không hạnh phúc,
ngon lành gì: Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm.
Cái cảnh ấy còn cay đắng, tủi nhục hơn cả những người đi làm mướn bởi người ta
đi làm mướn họ còn được trả công nhưng những người vợ lẽ thì không những đã
không có công mà còn bị ghẻ lạnh, khinh rẻ: Cầm
bằng làm mướn, mướn không công. Ta thấy người vợ lẽ không chỉ thiệt thòi về
mặt vật chất mà còn cả về tinh thần, đặc biệt là trong tình cảm vợ chồng.
Trải qua cảnh làm lẽ ấy rồi mới cảm
hết cái cay đắng của nó, mới chua xót cho phận mình mà hối hận khi đã lấy chồng
để bây giờ đến nông nỗi này: Thân này ví
biết dường này nhỉ/ Thà trước thôi đành ở vậy xong. Nếu biết trước lấy
chồng mà phải khổ sở như thế này, tủi nhục như thế này thì họ - những người vợ
lẽ đã chẳng bao giờ bước vào, chẳng thà họ ở vậy mà tự do, thoải mái về tinh
thần còn hơn cái phận làm lẽ người ta thì chăn ấm nệm êm, cũng chồng mình đấy
mà mình nào được cái quyền êm ấm bên chồng, giường thì vợ lớn giành nhưng việc
thì lại đùn hết cho mình, tối ngủ lạnh cô đơn, sáng lại phải dậy sớm lo việc
nhà. Thật trái ngang thay! Cho nên, kết thúc bài thơ Làm lẽ, Xuân Hương mới cất lên một tiếng thở dài cho cuộc đời của
tất cả chị em lẽ mọn và đưa ra một giải pháp: Thà trước thôi đành ở vậy xong. Thế mà nào có xong được, lối thoát
mà Xuân Hương đưa ra là hoàn toàn trái với “quy
luật tình cảm và quy luật sinh tồn của con người”. Nó “bộc lộ những bế tắc, những bi kịch trong cuộc đời của người vợ lẽ”,
“phản ánh cực độ nỗi đau khổ của những người phụ nữ không may rơi vào cảnh lẽ
mọn, nỗi đau khổ đời tư của nữ sĩ họ Hồ!” [7, 49].
Với bài thơ Làm lẽ, Xuân Hương lên án
gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, mỉa mai xã hội,
cười vào mặt xã hội nhưng ẩn đằng sau tiếng cười ấy là cuộc đời bất hạnh của
bà, là những khổ đau của bà, đúng như Xuân Diệu nói: “Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất cũng là máu và nước mắt, mặc cái
áo trào phúng đó thôi” [6, 426].
3. Phê phán những giáo điều phong kiến
ràng buộc người phụ nữ
Chế độ phong kiến ở nước ta tồn tại
qua nhiều thế kỷ với một nền quân chủ tập quyền chuyên chế kiểu gia trưởng và
một tư tưởng thống trị dựa trên Nho giáo chính thống, do đó con người sống
trong xã hội ấy không tránh khỏi những ràng buộc bởi những giáo điều cứng nhắc,
bảo thủ. Bên cạnh đó, xã hội phong kiến lại là một xã hội “nam tôn nữ ti” nên
tất yếu người phụ nữ là người phải chịu nhiều bất công và sự ràng buộc nghiêm
khắc của giáo điều phong kiến hơn cả. Cụ thể đã có rất nhiều luật lệ nghiêm cấm
người phụ nữ tự do yêu đương, có những mối quan hệ bất chính trước hôn nhân.
Những luật lệ này một mặt làm cho đạo đức kỉ cương của xã hội được duy trì ổn
định, không bị xâm phạm nhưng mặt khác đã đem đến biết bao cảnh thảm khốc bởi
sự trừng phạt nghiêm khắc, thậm chí đến mức tàn bạo của giáo lí phong kiến đối
với những người phụ nữ lỡ dại.
Ở cái xã hội Việt Nam xưa, khi mà chế độ phong kiến còn
thống trị, phụ nữ bị coi khinh như những món đồ chơi và bị xem là vật sở hữu
của đàn ông. Với sự đồng cảm nữ giới của mình, Xuân Hương đã “lượng thứ đối với hạng gái chửa hoang, dám
đưa ra những vần thơ này trước những búa rìu đạo đức đang sắc bén và trong bầu
không khí đang đặc sệt một mùi “khinh nữ” của nho gia” [6, 346]. Xuân Hương
đã lí giải nguyên nhân mà những người phụ nữ ấy phạm tội chửa hoang: Cả nể cho nên hoá dở dang/ Nỗi niềm chàng có
biết chăng chàng? (Không chồng mà
chửa). Sở dĩ họ lầm lỡ và vì họ cả nể, một người con gái yếu mềm vì cả nể
với chàng trai mình yêu đã không đành lòng từ chối đòi hỏi của chàng và vì thế
nên mới dở dang, mới mang danh không chồng mà chửa, bị người đời khinh bỉ, bêu
rếu, bị cho là dâm phụ và còn phải chịu những hình phạt tàn khốc khác. Ấy thế
mà chàng có hiểu cho chăng nỗi niềm của thiếp? Hay là vì lo sợ, vì sĩ diện mà
chàng cũng bỏ thiếp, một người con gái vì quá yêu mà lỡ dại: Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc/ Phận liễu
sao đà nảy nét ngang? (Không chồng
mà chửa). Chồng còn chưa có mà đã có con, đời người con gái thế là hoá dở
dang. Nhưng người con gái ấy không hề than trách, hối hận, chỉ mong sao người
mình yêu nhớ tới “cái nghĩa trăm năm”,
còn cái đứa con kia, cái “mảnh tình một khối” ấy thì nàng xin mang, nàng
chấp nhận cả: Cái nghĩa trăm năm chàng
nhớ chửa?/ Mảnh tình một khối thiếp xin mang (Không chồng mà chửa). Bằng sự cảm thông và thương xót của mình đối
với những cô gái chửa hoang, Xuân Hương không chỉ nhận thấy và lí giải nguyên
nhân của sự lầm lỡ ấy mà bà còn thay họ cất lên một lời thách thức với toàn bộ
giáo điều phong kiến đang tồn tại, đang ràng buộc con người mà đặc biệt là
người phụ nữ: Quản bao miệng thế lời
chênh lệch/ Không có, nhưng mà có, mới ngoan (Không chồng mà chửa).
Cùng
với việc nữ sĩ bênh vực cho người phụ nữ chửa hoang là sự cảm thông, cùng cảnh
ngộ với những người vợ lẽ mà thốt lên tiếng chửi, nguyền rủa cái chế độ đa thê
vô nhân đạo, cái quan niệm trọng nam khinh nữ cho phép đàn ông có năm thê bảy
thiếp mà phụ nữ thì bị buộc phải giữ trinh tiết, suốt đời thờ một chồng. Có những
người vợ lẽ phải cam chịu đắng cay, không bằng cả kẻ làm mướn:
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm/
Cầm bằng làm mướn, mướn không công (Làm lẽ), có những cô
gái vì yêu mà lầm lỡ: Cả nể cho nên hoá dở dang (Không
chồng mà chửa)…Và tất nhiên, trong xã hội “nam tôn nữ
ti” ấy, phụ nữ bị xem là vật sở hữu của đàn ông, họ không được học hành, thi cử,
bị ràng buộc, có tài mà không thể làm gì, chỉ đành nuối tiếc, tức giận, coi thường
lũ đàn ông bất tài: Ví đây đổi phận làm
trai được/ Thì sự anh hùng há bấy nhiêu! (Đề đền Sầm Nghi Đống). Tất cả những bi kịch, những bất công ấy đều
xuất phát từ những giáo điều khắt khe, những quan niệm lạc hậu và những luật lệ
tàn nhẫn, vô nhân đạo của chế độ phong kiến đối với người phụ nữ.
Xuân
Hương đồng cảm với họ bao nhiêu thì lại căm ghét chế độ phong kiến bấy nhiêu. Bà
“chống lại tư tưởng “nam tôn nữ ti” bằng
những cái nhìn xách mé: Ghé mắt trông
ngang thấy bảng treo/ Kìa đền thái thú đứng cheo leo (Đề đền Sầm Nghi Đống). Những
cách xưng hô trịch thượng: Khéo khéo đi
đâu lũ ngẩn ngơ/ Lại đây cho chị dạy làm thơ” (Mắng học trò dốt I).
Và tiếng nói phê phán trong thơ Xuân Hương chính là để giải phóng con người,
nhất là người phụ nữ ra khỏi những tập tục, lễ giáo, đạo đức phong kiến bấy lâu
nay vẫn luôn chèn ép họ.
Tóm lại, thơ Nôm Hồ
Xuân Hương phê phán hiện thực xã hội ở nhiều mặt với một thái độ cứng rắn, mạnh
bạo; lên án, tố cáo những giáo điều phong kiến ràng buộc người phụ nữ khiến họ
mất tự do, tự chủ của mình, đẩy họ rơi vào bước đường cùng, chịu nhiều bất hạnh,
đau thương. Nhà thơ đã vì họ và vì chính bản thân mình mà cất lên tiếng nói phản
kháng, đấu tranh đòi lại sự tự do, tự giải phóng mình ra khỏi những bất công,
những ràng buộc đè nén bấy lâu nay. Và vì thế, người ta mới gọi bà là người phụ
nữ “nổi loạn” của thời đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ
biên, 2000), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Lộc (1982), Thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Nguyễn Lộc, Đào Thái Tôn, Nguyễn Văn Hanh…(Tuyển
chọn và giới thiệu, 2007), Hồ Xuân
Hương - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Lã Nhâm Thìn, Vũ Thanh (Đồng chủ biên, 2015), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam (Tập
2), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
5. Nguyễn Đình Thu (2016), “Vẻ đẹp
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Bánh trôi nước”, Báo Giáo dục
& thời đại, Số 255, tr.10-11.
6. Đỗ Lai Thúy
(1999), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
7. Trương Xuân Tiếu (2002), Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương (Luận
án Tiến sĩ Ngữ văn), Viện Văn học, Hà Nội.
8. Trần Xuân Toàn (2015), Ngôn ngữ
văn học dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
* Nguồn: Dự thảo Kỷ yếu Hội nghị NCKH Ngữ văn năm 2017, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Quy Nhơn
Bình Định, tháng 5 năm 2017
0 nhận xét:
Đăng nhận xét