Thứ Ba, 9 tháng 1, 2018

CHẤT TRỮ TÌNH - TRIẾT LÝ TRONG THƠ NGUYỄN DUY (ĐÒ LÈN, ÁNH TRĂNG) (Chu Thị Lý – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K18, ĐHQN)

Đối với những người luôn dành một góc nhỏ trái tim mình cho văn chương thời kì hiện đại thì Nguyễn Duy không phải là cái tên xa lạ. Là nhà thơ trưởng thành lên từ phong trào thơ ca thời chống Mỹ, thơ Nguyễn Duy bên cạnh chất trữ tình sâu lắng còn ánh lên chất trí tuệ, triết lý, thâm trầm sâu sắc. Chất trữ tình – triết lý xuyên suốt quá trình sáng tác thơ  của Nguyễn Duy. “Đò lèn”,“Ánh trăng” là một trong số những bài thơ thấm đẫm chất trữ tình – triết lý của Nguyễn Duy.



1.     Trữ tình về con người, quê hương
Trữ tình là yếu tố quyết định tạo nên chất thơ  trong một tác phẩm văn học. Thơ luôn thiên về diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc sống xung quanh. Những rung động, suy tư xuất phát từ chính những hiện tượng đời sống và phản chiếu vào tâm hồn nhà thơ. Khi phân tích tác phẩm thơ, ta không phải đi sâu vào mổ xẻ, cắt nghĩa, lí giải về các chi tiết, sự kiện, sự việc được nhà thơ đề cập, mà điều cốt lõi là thấy và nói được những cảm xúc, tâm trạng, thái độ và suy tư của nhà thơ.
Đến với những trang thơ thấm đầy chất đời, chất hiện thực của Nguyễn Duy, ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh của những con người  bình dị, chân chất, mộc mạc ở mọi miền trên đất nước dải chữ S này. Đó có thể là một người ăn mày có số phận tội nghiệp hay ông già Sông Hậu phóng khoáng, đôn hậu hay bà mẹ với tấm lòng bao la ở Lục Bình, …Lê Thị Thanh Đạm nhận xét : “Họ là những con người nhọc nhằn, vất vả, gian lao suốt cả cuộc đời nhưng sống giản dị mộc mạc vô tư, tự nhiên như lẽ của đất trời” [1; 82,83]. Bên cạnh đó, Nguyễn Duy cũng dành khá nhiều tâm huyết và cảm xúc để gửi tặng cho những người thân yêu nhất gắn bó trọn đời với nhà thơ, đặc biệt xuất hiện như một niềm trăn trở trên những trang thơ của Nguyễn Duy là hình ảnh người bà tần tảo hôm sớm.
Trong “Đò Lèn”, hình ảnh người bà xuất hiện trong dòng kí ức của người cháu,Trịnh Thanh Sơn cho là “những thước phim quay chậm” về nỗi gian truân của người bà, khiến độc giả “chỉ đọc thôi đã muốn trào nước mắt” [3, tr.14]. Đứa trẻ còn quá bé bỏng, quá ngây thơ nên  không thấy được cuộc sống bộn bề lo toan của người bà, còn người bà thì bao dung chấp nhận hết cực khổ để là nơi dựa tinh thần cho đứa cháu của mình. Đó chính là tấm lòng bao dung không bến, không bờ của người bà.
 Nhà thơ như đang hoài niệm về tuổi thơ đẹp đẽ, ngây ngô nhưng vẫn còn đầy tiếc nuối  bên bà của mình. Đứa trẻ nào đã từng được tắm mình trong dòng sông của mỗi vùng quê yên bình ở đất nước mình thì mới thấy hết cái hay của những trò chơi như: câu cá, bắt chim, xem hát văn.... Kí ức về thuở ấu thơ bỗng hiện lên đầy ấn tượng, sống động với hình ảnh níu váy bà, thú vui như câu cá, bắt chim sẻ, hái trộm nhãn hay mùi hương của huệ trắng, khói trẩm bỗng thoang thoảng như một nỗi ám ảnh hay giai điệu của những bài  hát chầu văn, một dáng người lảo đảo,...
Hình ảnh  của người  bà hiện lên trong tâm trí nhà thơ chưa có phút giây nào ngơi nghỉ. Cả một đời bà dành để chăm con chăm cháu. Bà nhận hết cực nhọc về mình để lo cho con cháu từng miếng ăn giấc ngủ, không phải chịu cái đói, cái rét. Bà có sá chi những công việc cực nhọc hay lam lũ như  “mò cua  xúc  tép”, “gánh chè xanh”.  Nguyễn Duy với những cảm xúc chân thật nhất của mình lại khiến ta nhớ đến người bà tảo tần cùng bếp lửa sưởi ấm tuổi thơ của Bằng Việt:      
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm     
 Một bếp lửa ấp iu nồng đượm       
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.      
(Bếp lửa)
 Đọc câu thơ “Quán Cháo, Đồng Dao thập thững những đêm hàn”, ta cảm nhân những khó  nhọc của những bước  đi  của bà trong đêm giá lạnh qua từ "thập thững” - từ láy  được nhà thơ sử dụng sáng tạo để thể hiện sự gian truân, thầm lặng của người bà trên những bước đường bà đã đi qua. Nó  vừa có giá trị tạo hình, vừa có giá trị biểu cảm, gợi những bước đi khó nhọc của bà do con đường gồ ghề hay do bà đang mệt mỏi do đoạn đường dài bà đã và đang đi qua. Hình ảnh người bà chưa bao giờ rời xa đứa cháu, bà cứ theo suốt những năm tháng ấu thơ của cậu nên đôi lần cậu đứng giữa dòng mơ hồ của hư và thực của ảo vọng và thực tại:
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên, phật, thánh, thần
Cậu bé như đang đứng giữa hai bờ. Bờ bên này là thế giới hư ảo với  tiên, phật, thánh thần, bờ bên kia là thế giới thực với cuộc đời lam lũ, vất vả  của bà. Cậu bé ngây thơ, khờ dại đến "trong suốt”.  Bà âm thầm đánh đổi sự an nhàn của mình để đem sự bình yên cho cuộc sống của cậubé  nên cậu bé không nhận thấy sự vất vả của bà. Đối với cậu bé bà cũng như Tiên, Phật, thánh, thần,... hay bởi cậu còn quá nhỏ để phân biệt đâu là hư, đâu là thực!
Trong dòng hồi ức của người cháu, hình ảnh người bà quá sâu sắc nên hình ảnh của bà là một nỗi ám ảnh, ăn năn cũng là một niềm vui nho nhỏ khi cậu nhắc về bà. Nguyễn Duy chắc hẳn đã rất tự hào vì đã có người bà tuyệt vời của mình cho nên hình ảnh người bà xuất hiện một cách thường xuyên trong dòng tự sự của nhà thơ:
bà tôi lặn lội bên sông
lả lá chè xanh xuống đò lên chợ
(Dòng sông mẹ - 1986)
Quê hương, đất nước là một trong những nguồn cảm hứng lớn của thơ ca .Bởi ai sinh ra mà chẳng có một miền quê để nhớ để thương và để quay trở về. Qua những dòng thơ xuất hiện ở đầu bài thơ, ta thấy cuộc sống ở làng quê nơi Nguyễn Duy sinh ra thật yên bình, vừa thiêng liêng lại vừa gần gũi... Tất cả gắn với một tên đất tên làng cụ thể như : Cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng…Những địa danh trên đều quen thuộc và gắn với những kỉ niệm đã qua của nhà thơ. Dù mai này xa quê và đến với những vùng đất mới thì nhà thơ mãi không thể quên đi những địa danh cụ thể đã ăn sâu vào tiềm thức của mình.
Ánh trăng là hình ảnh xuyên suốt bốn khổ thơ trong bài Ánh trăng, xâu chuỗi các dòng hoài niệm và suy nghĩ của một đời người về hiện tại và quá khứ. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất tinh tế để xây dựng thành công hình tượng ánh trăng - “vô tri vô giác” nhưng có sức mạnh đánh thức và lay động trái tim. Hình ảnh ánh trăng thân thuộc, gần gũi, gắn với những kỉ niệm đẹp gắn bó với tuổi thơ, với năm tháng chiến tranh ác liệt:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.
Có thể nói hình ảnh “ánh trăng” đã thành biểu tượng xuyên suốt tuổi thơ của tác giả, gắn bó với những kỉ niệm khó quên. Ánh trăng tinh khiết, dịu nhẹ lan tỏa từ những năm tháng chiến tranh gian khổ đến cánh đồng mênh mông trong thời bình.
2.     Triết lý về đạo lý truyền thống
Bàn về các yếu tố làm nên giá trị và sức sống lâu bền cho văn chương nghệ thuật, GS Hồ Thế Hà  cho rằng: “Đó chính là sự hài hoà thẩm mỹ giữa trí tuệ và cảm xúc; giữa cái ảo và cái chân; giữa hình thức và nội dung. Trong đó, tính triết lý là một phương diện cần có để làm giàu nhận thức, liên tưởng và suy tưởng của con người.” [2] Theo Từ điển tiếng Việt, triết lý là lý luận chung của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Tính triết lý ở đây được thăng hoa từ cảm xúc trên cái nền hiện thực.Không phải chỉ câu thơ, bài thơ mà ngay cả những gì trong suy nghĩ của nhà thơ đã bao hàm một ẩn tàng triết lý.
Cậu bé Nguyễn Duy  qua sự  hồi  tưởng  ấy đã mạnh dạn thú nhận sự vô tâm đến vô tình của mình: "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”.  "Tôi đâu biết" như một lời nhận lỗi như một giật mình đầy xa xót của nhà thơ. Nhưng có một điều thật lạ, thật trùng hợp, cái giật mình xót xa này cũng là cái  giật mình xót xa của biết bao người con người cháu khi đến một ngày ngoảnh đầu nhìn lại những người ta yêu thương nhất đã không còn. Ta chợt nhận ra mình vô tâm một cách tệ hại nhất khi chưa bao giờ thể hiện tình cảm hay cảm xúc của mình với họ - những người ta trân trọng nhất. Ta tiếc nuối, hối hận và ao ước thần thời gian hãy cho quá khứ quay trở lại ngày thơ ấy nhưng tất cả đã muộn màng.
Khổ cuối cùng như một sự suy ngẫm phổ quát về những kiếp người bình dị mà ta dễ dàng bắt gặp trong cuộc sống này:  
  Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại     
  dòng sông xưa vẫn bên lở, bên hồi     
  khi tôi biết thương bà thì đã muộn  
   bà chỉ cồn là một nấm cỏ thôi.
Đằng sau lời kể dường như “’không cảm xúc” của cậu bé Nguyễn Duy, ta nhận thấy sự hối hận, tiếc nuối của cậu. Nay  cậu đã trở thành một người lính kiên cường dũng cảm, dòng sông xưa mà thời thơ ấu cậu bé vẫn thường gắn bó, qua thời gian nó vẫn vậy chỉ có mỗi người bà ngày nào vẫn thương yêu và che chở cho cậu đã thành hư vô, không còn hiện hữu. Sự thức tỉnh của người cháu trước quy luật đơn giản nghiệt ngã của cõi người để càng đau đớn, tiếc xót vì thươngbà.  Người cháu đã thú nhận sự thức tỉnh đau đớn xót xa của mình như một sự trưởng thành của ngườicháu:
Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi
Nguyễn Du cảm thấy thiếu vắng và trống trải bởi bà đã không còn bên cậu như ngày thơ bé. Tâm sự của nhà thơ thật khiến ta xúc động bởi trong mỗi chúng ta đều tìm thấy đâu đó bản thân mình từ những dòng tâm sự của Nguyễn Duy. Khi ta biết thương bà hay bất cứ người thân nào thì cũng là lúc họ không còn bên ta nữa. Phải chăng mỗi chúng ta, ai cũng quá vô tư với trò chơi của lứa tuổi mà đã bỏ qua những giây phút ngắn ngủi bên bà?
Với ngôn từ thơ trữ tình giản dị, trong sáng xen lẫn những vần thơ hài hước, bài thơ đã làm nổi bật lên tình bà cháu sâu sắc, thiêng liêng. Thuở bé bỏng cậu khôn lớn trong vòng tay bảo bọc của bà. Nhưng cậu lại vùi mình vào nhũng trò đùa của trẻ thơ. Rồi khi lớn lên, cậu bé thuở xưa đã trưởng thành, cậu tham gia kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, với hiện thực chiến trường còn thiếu thốn và khốc liệt nên cậu chẳng thể về thăm bà. Đến khi có dịp về thăm bà, đó là lúc cậu nhận ra quy luật nghiệt ngã của cuộc đời, nhưng lúc đó bà không còn nữa.Một sự thức tỉnh trong trễ tràng chăng?
Trong bài thơ Ánh trăng, dù là ở đâu thì “ánh trăng” vẫn vẹn nguyên, gần gũi, phóng khoáng khiến cho tác giả có cảm giác “không bao giờ quên”, nhưng đó chỉ là “ngỡ” thôi. Vầng trăng tình nghĩa, chung thủy luôn là hình nhắc nhắc nhở tác giả không được phép quên đi:
ngỡ không bao giờ quên 
cái vầng trăng tình nghĩa
Nhưng chính từ “ngỡ” ấy chính là dấu hiệu cho một sự rạn nứt, quên lãng:
  Từ hồi về thành phố
Quen đèn điện của gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
Cuộc sống đô thị phồn hoa với đèn điện, cửa gương, với tiện nghi đầy đủ đã khiến cho tác giả quên mất đi người bạn tri kỉ ngày xưa đó. Từng là bạn tri kỉ, từng là “người” ngỡ như không quên, nhưng giờ đây tác giả vô tâm, vô tình, hờ hững như người dưng, không hơn không kém. Phép so sánh đã khiến cho tứ thơ xoáy sâu vào lòng người nhiều xót xa cho một sự thay đổi của lòng người, nhưng ánh trăng với sự im lặng tuyệt đối đầy vẻ nghiêm nghị của “ánh trăng” như một lời trách phạt,  nhắc nhở “ta” phải tự nhìn lại mình và thái độ tích cực với quá khứ, với những người đã hi sinh trong chiến tranh, đôi khi với cả chính mình  khi hoàn cảnh sống đã thật sự đổi thay. Đó là những tình cảm đầy tính chất nhân bản vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc ViệtNam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Đặc điểm thẩm mỹ thơ Nguyễn Duy”, Lê Thị Thanh Đạm
2. “Nghĩ về tính triết lý trong thơ”, Tạp chí Sông Hương - số 179-180 (tháng 1-2)
3. Trịnh Thanh Sơn (2004), “Lời bình của Trịnh Thanh Sơn về bài Đò Lèn”, Báo thơ

THÔNG TIN:
1/ Chu Thị Lý
2/ Lớp Cao học Văn học Việt Nam khóa 18

4/ SDT: 01677394473


* Nguồn: Dự thảo Kỷ yếu Hội nghị NCKH Ngữ văn năm 2017, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Quy Nhơn
Bình Định, tháng 5 năm 2017

0 nhận xét:

Đăng nhận xét