Đối
với những người luôn dành một góc nhỏ trái tim mình cho văn chương thời kì hiện
đại thì Nguyễn Duy không phải là cái tên xa lạ. Là nhà thơ trưởng thành lên từ
phong trào thơ ca thời chống Mỹ, thơ Nguyễn Duy bên cạnh chất trữ tình sâu lắng
còn ánh lên chất trí tuệ, triết lý, thâm trầm sâu sắc. Chất trữ tình – triết lý
xuyên suốt quá trình sáng tác thơ của
Nguyễn Duy. “Đò lèn”,“Ánh trăng” là một trong số những bài thơ thấm đẫm chất trữ
tình – triết lý của Nguyễn Duy.
1. Trữ
tình về con người, quê hương
Trữ tình là yếu tố quyết định tạo nên chất thơ trong một tác phẩm văn học. Thơ luôn thiên về
diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc sống xung
quanh. Những rung động, suy tư xuất phát từ chính những hiện tượng đời sống và
phản chiếu vào tâm hồn nhà thơ. Khi phân tích tác phẩm thơ, ta không phải đi
sâu vào mổ xẻ, cắt nghĩa, lí giải về các chi tiết, sự kiện, sự việc được nhà
thơ đề cập, mà điều cốt lõi là thấy và nói được những cảm xúc, tâm trạng, thái
độ và suy tư của nhà thơ.
Đến
với những trang thơ thấm đầy chất đời, chất hiện thực của Nguyễn Duy, ta dễ
dàng bắt gặp hình ảnh của những con người
bình dị, chân chất, mộc mạc ở mọi miền trên đất nước dải chữ S này. Đó
có thể là một người ăn mày có số phận tội nghiệp hay ông già Sông Hậu phóng
khoáng, đôn hậu hay bà mẹ với tấm lòng bao la ở Lục Bình, …Lê Thị Thanh Đạm nhận
xét : “Họ là những con người nhọc nhằn, vất
vả, gian lao suốt cả cuộc đời nhưng sống giản dị mộc mạc vô tư, tự nhiên như lẽ
của đất trời” [1; 82,83]. Bên cạnh đó, Nguyễn Duy cũng dành khá nhiều tâm
huyết và cảm xúc để gửi tặng cho những người thân yêu nhất gắn bó trọn đời với
nhà thơ, đặc biệt xuất hiện như một niềm trăn trở trên những trang thơ của Nguyễn
Duy là hình ảnh người bà tần tảo hôm sớm.
Trong
“Đò Lèn”, hình ảnh người bà xuất hiện trong dòng kí ức của người cháu,Trịnh
Thanh Sơn cho là “những thước phim quay
chậm” về nỗi gian truân của người bà, khiến độc giả “chỉ đọc thôi đã muốn trào nước mắt” [3, tr.14]. Đứa trẻ còn quá bé
bỏng, quá ngây thơ nên không thấy được
cuộc sống bộn bề lo toan của người bà, còn người bà thì bao dung chấp nhận hết
cực khổ để là nơi dựa tinh thần cho đứa cháu của mình. Đó chính là tấm lòng bao
dung không bến, không bờ của người bà.
Nhà thơ như đang hoài niệm về tuổi thơ đẹp đẽ,
ngây ngô nhưng vẫn còn đầy tiếc nuối bên
bà của mình. Đứa trẻ nào đã từng được tắm mình trong dòng sông của mỗi vùng quê
yên bình ở đất nước mình thì mới thấy hết cái hay của những trò chơi như: câu cá, bắt chim, xem hát văn.... Kí ức về
thuở ấu thơ bỗng hiện lên đầy ấn tượng, sống động với hình ảnh níu váy bà, thú
vui như câu cá, bắt chim sẻ, hái trộm nhãn hay mùi hương của huệ trắng, khói trẩm
bỗng thoang thoảng như một nỗi ám ảnh hay giai điệu của những bài hát chầu văn, một dáng người lảo đảo,...
Hình
ảnh của người bà hiện lên trong tâm trí nhà thơ chưa có
phút giây nào ngơi nghỉ. Cả một đời bà dành để chăm con chăm cháu. Bà nhận hết
cực nhọc về mình để lo cho con cháu từng miếng ăn giấc ngủ, không phải chịu cái
đói, cái rét. Bà có sá chi những công việc cực nhọc hay lam lũ như “mò
cua xúc
tép”, “gánh chè xanh”. Nguyễn
Duy với những cảm xúc chân thật nhất của mình lại khiến ta nhớ đến người bà tảo
tần cùng bếp lửa sưởi ấm tuổi thơ của Bằng Việt:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
(Bếp
lửa)
Đọc câu thơ “Quán Cháo, Đồng Dao thập thững những đêm hàn”, ta cảm nhân những
khó nhọc của những bước đi của
bà trong đêm giá lạnh qua từ "thập
thững” - từ láy được nhà thơ sử dụng
sáng tạo để thể hiện sự gian truân, thầm lặng của người bà trên những bước đường
bà đã đi qua. Nó vừa có giá trị tạo
hình, vừa có giá trị biểu cảm, gợi những bước đi khó nhọc của bà do con đường gồ
ghề hay do bà đang mệt mỏi do đoạn đường dài bà đã và đang đi qua. Hình ảnh người
bà chưa bao giờ rời xa đứa cháu, bà cứ theo suốt những năm tháng ấu thơ của cậu
nên đôi lần cậu đứng giữa dòng mơ hồ của hư và thực của ảo vọng và thực tại:
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên, phật, thánh,
thần
Cậu
bé như đang đứng giữa hai bờ. Bờ bên này là thế giới hư ảo với tiên, phật, thánh thần, bờ bên kia là thế giới
thực với cuộc đời lam lũ, vất vả của bà.
Cậu bé ngây thơ, khờ dại đến "trong suốt”.
Bà âm thầm đánh đổi sự an nhàn của mình để đem sự bình yên cho cuộc sống
của cậubé nên cậu bé không nhận thấy sự
vất vả của bà. Đối với cậu bé bà cũng như Tiên, Phật, thánh, thần,... hay bởi cậu
còn quá nhỏ để phân biệt đâu là hư, đâu là thực!
Trong
dòng hồi ức của người cháu, hình ảnh người bà quá sâu sắc nên hình ảnh của bà
là một nỗi ám ảnh, ăn năn cũng là một niềm vui nho nhỏ khi cậu nhắc về bà. Nguyễn
Duy chắc hẳn đã rất tự hào vì đã có người bà tuyệt vời của mình cho nên hình ảnh
người bà xuất hiện một cách thường xuyên trong dòng tự sự của nhà thơ:
bà tôi lặn lội bên sông
lả lá chè xanh xuống đò lên chợ
(Dòng sông mẹ - 1986)
Quê
hương, đất nước là một trong những nguồn cảm hứng lớn của thơ ca .Bởi ai sinh
ra mà chẳng có một miền quê để nhớ để thương và để quay trở về. Qua những dòng
thơ xuất hiện ở đầu bài thơ, ta thấy cuộc sống ở làng quê nơi Nguyễn Duy sinh
ra thật yên bình, vừa thiêng liêng lại vừa gần gũi... Tất cả gắn với một tên đất
tên làng cụ thể như : Cống Na, chợ Bình
Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng…Những địa danh trên đều quen thuộc và
gắn với những kỉ niệm đã qua của nhà thơ. Dù mai này xa quê và đến với những
vùng đất mới thì nhà thơ mãi không thể quên đi những địa danh cụ thể đã ăn sâu
vào tiềm thức của mình.
Ánh trăng là hình ảnh xuyên suốt bốn khổ thơ trong bài
Ánh trăng, xâu chuỗi các dòng hoài
niệm và suy nghĩ của một đời người về hiện tại và quá khứ. Có thể nói Nguyễn
Duy đã rất tinh tế để xây dựng thành công hình
tượng ánh trăng - “vô tri vô giác” nhưng có sức mạnh đánh thức và lay động trái
tim. Hình ảnh ánh trăng thân thuộc, gần gũi, gắn với những kỉ niệm đẹp gắn bó với
tuổi thơ, với năm tháng chiến tranh ác liệt:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.
Có thể
nói hình ảnh “ánh trăng” đã thành biểu tượng xuyên suốt tuổi thơ của tác giả,
gắn bó với những kỉ niệm khó quên. Ánh trăng tinh khiết, dịu nhẹ lan tỏa từ
những năm tháng chiến tranh gian khổ đến cánh đồng mênh mông trong thời bình.
2. Triết
lý về đạo lý truyền thống
Bàn
về các yếu tố làm nên giá trị và sức sống lâu bền cho văn chương nghệ thuật, GS
Hồ Thế Hà cho rằng: “Đó chính là sự hài hoà thẩm mỹ giữa trí tuệ và cảm
xúc; giữa cái ảo và cái chân; giữa hình thức và nội dung. Trong đó, tính triết
lý là một phương diện cần có để làm giàu nhận thức, liên tưởng và suy tưởng của
con người.” [2] Theo Từ điển tiếng Việt, triết lý là lý luận
chung của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Tính triết lý ở đây được
thăng hoa từ cảm xúc trên cái nền hiện thực.Không phải chỉ câu thơ, bài thơ mà
ngay cả những gì trong suy nghĩ của nhà thơ đã bao hàm một ẩn tàng triết lý.
Cậu
bé Nguyễn Duy qua sự hồi tưởng ấy đã mạnh dạn thú nhận sự vô tâm đến vô tình
của mình: "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”. "Tôi đâu biết" như một lời nhận lỗi
như một giật mình đầy xa xót của nhà thơ. Nhưng có một điều thật lạ, thật trùng
hợp, cái giật mình xót xa này cũng là cái
giật mình xót xa của biết bao người con người cháu khi đến một ngày ngoảnh
đầu nhìn lại những người ta yêu thương nhất đã không còn. Ta chợt nhận ra mình
vô tâm một cách tệ hại nhất khi chưa bao giờ thể hiện tình cảm hay cảm xúc của
mình với họ - những người ta trân trọng nhất. Ta tiếc nuối, hối hận và ao ước
thần thời gian hãy cho quá khứ quay trở lại ngày thơ ấy nhưng tất cả đã muộn
màng.
Khổ
cuối cùng như một sự suy ngẫm phổ quát về những kiếp người bình dị mà ta dễ dàng
bắt gặp trong cuộc sống này:
Tôi đi lính, lâu không về
quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở, bên hồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ cồn là một nấm cỏ thôi.
Đằng
sau lời kể dường như “’không cảm xúc” của cậu bé Nguyễn Duy, ta nhận thấy sự hối
hận, tiếc nuối của cậu. Nay cậu đã trở
thành một người lính kiên cường dũng cảm, dòng sông xưa mà thời thơ ấu cậu bé vẫn
thường gắn bó, qua thời gian nó vẫn vậy chỉ có mỗi người bà ngày nào vẫn thương
yêu và che chở cho cậu đã thành hư vô, không còn hiện hữu. Sự thức tỉnh của người
cháu trước quy luật đơn giản mà nghiệt
ngã của cõi người để càng đau đớn, tiếc
xót vì thươngbà. Người cháu đã thú nhận
sự thức tỉnh và đau đớn xót xa của mình như một sự trưởng thành của
ngườicháu:
Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi
Nguyễn
Du cảm thấy thiếu vắng và trống trải bởi bà đã không còn bên cậu như ngày thơ
bé. Tâm sự của nhà thơ thật khiến ta xúc động bởi trong mỗi chúng ta đều tìm thấy
đâu đó bản thân mình từ những dòng tâm sự của Nguyễn Duy. Khi ta biết thương bà
hay bất cứ người thân nào thì cũng là lúc họ không còn bên ta nữa. Phải chăng mỗi
chúng ta, ai cũng quá vô tư với trò chơi của lứa tuổi mà đã bỏ qua những giây
phút ngắn ngủi bên bà?
Với
ngôn từ thơ trữ tình giản dị, trong sáng xen lẫn những vần thơ hài hước, bài
thơ đã làm nổi bật lên tình bà cháu sâu sắc, thiêng liêng. Thuở bé bỏng cậu
khôn lớn trong vòng tay bảo bọc của bà. Nhưng cậu lại vùi mình vào nhũng trò
đùa của trẻ thơ. Rồi khi lớn lên, cậu bé thuở xưa đã trưởng thành, cậu tham gia
kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, với hiện thực chiến trường còn thiếu thốn và khốc
liệt nên cậu chẳng thể về thăm bà. Đến khi có dịp về thăm bà, đó là lúc cậu nhận
ra quy luật nghiệt ngã của cuộc đời, nhưng lúc đó bà không còn nữa.Một sự thức
tỉnh trong trễ tràng chăng?
Trong bài thơ Ánh trăng,
dù là ở đâu thì “ánh trăng” vẫn vẹn nguyên, gần gũi, phóng khoáng khiến cho tác
giả có cảm giác “không bao giờ quên”, nhưng đó chỉ là “ngỡ” thôi. Vầng trăng
tình nghĩa, chung thủy luôn là hình nhắc nhắc nhở tác giả không được phép quên
đi:
ngỡ không bao giờ
quên
cái vầng trăng tình nghĩa
cái vầng trăng tình nghĩa
Nhưng
chính từ “ngỡ” ấy chính là dấu hiệu cho một sự rạn nứt, quên lãng:
Từ hồi về thành phố
Quen đèn điện của gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
Cuộc
sống đô thị phồn hoa với đèn điện, cửa gương, với tiện nghi đầy đủ đã khiến cho
tác giả quên mất đi người bạn tri kỉ ngày xưa đó. Từng là bạn tri kỉ, từng là
“người” ngỡ như không quên, nhưng giờ đây tác giả vô tâm, vô tình, hờ hững như
người dưng, không hơn không kém. Phép so sánh đã khiến cho tứ thơ xoáy sâu vào
lòng người nhiều xót xa cho một sự thay đổi của lòng người, nhưng ánh trăng với
sự im lặng
tuyệt đối đầy vẻ nghiêm nghị của “ánh
trăng” như một lời trách phạt, nhắc nhở “ta” phải tự nhìn lại mình và thái
độ tích cực với quá khứ, với những người đã hi
sinh trong chiến tranh, đôi khi với cả chính mình khi hoàn cảnh sống
đã thật sự đổi thay. Đó là những tình cảm
đầy tính chất nhân bản vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc ViệtNam.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. “Đặc điểm thẩm mỹ thơ Nguyễn Duy”, Lê Thị Thanh Đạm
2. “Nghĩ về tính triết lý trong thơ”,
Tạp chí Sông Hương - số 179-180 (tháng 1-2)
3. Trịnh Thanh Sơn (2004), “Lời bình của Trịnh Thanh Sơn
về bài Đò Lèn”, Báo thơ
THÔNG TIN:
1/ Chu Thị Lý
2/ Lớp Cao học Văn học Việt Nam khóa 18
4/ SDT: 01677394473
* Nguồn: Dự thảo Kỷ yếu Hội nghị NCKH Ngữ văn năm 2017, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Quy Nhơn
Bình Định, tháng 5 năm 2017
0 nhận xét:
Đăng nhận xét