Tạ Duy
Anh là một trong những cây bút nổi tiếng của nền văn học hiện đại Việt Nam. Là
nhà văn viết sung sức, trung thực và không ngừng tìm kiếm, sáng tạo cái mới, Tạ
Duy Anh luôn để cho mỗi tác phẩm của ông một cuộc đời với cách cấu trúc và ngôn
ngữ riêng. Bởi thế nên những tác phẩm của ông luôn gây tiếng vang lớn và để lại
nhiều suy ngẫm cho độc giả.
Làng quêđang biến mất? - tập bình luận xã hội của Tạ Duy
Anh là tâm huyết của một nhà văn trước những vấn đề gây nhức nhối cho xã
hội, đang tồn tại trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống, được phát tiết qua góc
nhìn văn hóa. Trong từng câu chuyện, ta dễ dàng nhận ra những trăn trở của
ông đối với những đổi thay của con người, của văn hóa làng xã - những điều mà
trước nay đã trở thành chuẩn mực, truyền thống truyền qua bao đời. Ở đó ta thấy
được cả sự luyến tiếc xót xa trước môi trường văn hóa đang ô nhiễm, đang bị hủy
hoại trầm trọng, nơi mà những thói hư tật xấu lên ngôi thống trị. Là sự dửng
dưng vô cảm trước nỗi đau của đồng loại, là sự giả dối được đặt nặng hơn sự
trung thực, là sự tham lam, ích kỷ chỉ biết vun vén cho cá nhân mình.
Với Làng quê đang biến mất?Tạ
Duy Anh không chỉ vẻ nên một bức tranh cuộc sống mà còn là những hình ảnh chân
thật ở một khía cạnh khác về lối sống của người Việt hiện đại. Hay nói cách
khác Làng
quê đang biến mất?là cuộc thám hiểm những cố tật của văn hóa Việt mà
mỗi người đều tìm thấy chân dung của mình trong đó.
Nhiều
bạn đọc sẽ thắc mắc, sao lại “vụng về” trong giao tiếp khi mà từ bao đời nay
người Việt được truyền lại từ cha ông biết bao truyền thống, ứng xử cao đẹp
trong giao tiếp. Bởi lẽ giao tiếp ở đây khi chỉ là hoạt động trao đổi thông tin
giữa con người với nhau nhằm tạo dựng mối quan hệ. Mà giao tiếp còn được hiểu
là những ứng xử trong cách ăn nói, đi đứng hằng ngày. Chẳng thế nên người xưa
có câu “Học ăn, học gói, học mở”.
Thiết nghĩ, người Việt cần gì phải học ăn nữa, đó là một việc đơn giản, những,
đối với những gì đang diễn ra hằng ngày thì thật sự người Việt phải học lại
cách “ăn”.
Bàn về vấn đề này, Tạ Duy Anh bày tỏ rất rõ quan điểm của
mình. Ông cũng thừa nhận rằng chuyện ăn uống là một chuyện nhỏ, vô cùng nhỏ.
Bởi lẽ “văn hóa Việt từ xa xưa đến nay
vẫn thường tránh coi chuyện ăn uống là chuyện lớn. Cho dù là tiệc tùng linh
đình thì cũng “Mời xơi chén rược nhạt”. Rồi nào là: “Trọng tình không ai trọng
thực”, “Lời chào cao hơn mâm cổ”… Tất cả chỉ nhầm làm bật tinh thần của bửa ăn
mới quan trọng” (Chuyện nhỏ hơn con
thỏ)[1,tr.10]. Đó chính là truyền thống, bản sắc, đặc tính dân tộc của
người Việt từ bao đời nay và tất yếu ta không thể phủ nhận. Tuy nhiên nhà văn
muốn nói đến chuyện ăn uống ở một loại hình du nhập từ nước ngoài đó là kiểu ăn
Buffet. Kiểu cỗ bàn này là thực khách tự lựa chọn thức ăn, không hạn định số
lượng và thường ăn đứng. Người Việt mình vốn nhạy cảm với những khẩu vị ăn mới
nên kiểu Buffet này du nhập rất nhanh vào khu vực thị thành. Cũng chính vì điều
này cũng đã “sinh ra vô số điều trái
khoáy, chuyên tức cười, chuyện “quê một cục”, thậm chí là chuyện đau lòng liên
quan đến quốc sỉ”. “Phàm cái gì trên đời cũng phải học thì mới biết”[1,tr.11].
Nhưng việc học ăn lại rất ít được chú ý nhất. Và thế là “khi cái thứ tiệc đứng tên là Buffet du nhập vào Việt Nam, rất ít người
biết rằng nó không chỉ là một kiểu ăn, mà còn là nét văn hóa ngoại lai”[1,tr.11].
Sự xa lạ về cách thức ăn, món ăn,… đã làm cho người Việt bối rối , vô tình lòi
ra nhiều thói xấu: “Đáng lẽ phải từ tốn,
nhẹ nhàng, xem qua xem mình có thể ăn được gì, ăn thế nào, món gì ăn trước là
phù hợp với mình… và nếu chưa chắc chắn về khẩu vị thì phải lấy chút ít ăn thử,
hợp khẩu vị mới lấy thêm”[1,tr.12]. Nhưng những nguyên tắc sơ đẳng ấy chưa
được học nên người Việt cứ “thói nào tật ấy”,
như ở giữa chợ: “nói to, gọi nhau í
ới, đi lại huỳnh huỵnh, mở nắp nồi xủng xoảng, cười nói hô hố, chen lên trước
người khác dù món đó ê hề…”[1,tr.12]. Kiểu ăn Buffet này đã vô tình mang
toàn bộ “những nét xấu nhất của văn hóa
ẩm thực Việt đặt chềnh ễnh trong một căn phòng có thể nhìn thấy cả sợi tóc rơi”
(Chuyện nhỏ như con thỏ)[1,tr.13].
Nhà văn một lần nữa thấy lo ngại cho hình ảnh Việt Nam so với bạn bè năm châu
khi mà ở những nhà hàng có Buffet ở Thái Lan, Malaysia,… luôn có dòng chữ “Lấy
đủ dùng” hoặc “Ăn không hết, sẽ bị phạt!” được ghi bằng tiếng Việt. “Từ chuyện nhỏ như con thỏ, nhỏ hơn cả con
thỏ là việc đưa miếng ăn vào miệng còn chưa biết cách, thì vội bàn làm gì đến
những chuyện thay trời đổi đất chỉ để mua cười”[1,tr.14].
Văn hóa ẩm thực của Người Việt không chỉ như thế mà tác giả
còn mở rộng hơn sang vấn đề an toàn thực phẩm. Qua cuộc trò chuyện với anh bạn
mà nhà văn Tạ Duy Anh đã phát hiện ra một sự thật kinh hoàng về món gà ác ông
vẫn hay ăn. “Vì miếng ăn người ta có thể
băng đèo, lội suối, bất chấp tính mạng có thể bị mất bất cứ lúc nào”. Đó là
những điều có thể chấp nhận được, nhưng “gieo
rắc sự nhục nhã thì không thể tha thứ. Nhục nhã nhất là chúng ta cho nhau ăn cả
thứ thiên hạ thải ra, còn đâu là quốc sĩ!” [1,tr.269]. Thê thảm hơn, phải
chăng người Việt thuộc giống người dễ dãi trong ăn uống, cực kỳ dễ dãi? “Mặc cho mọi cảnh báo về virus cúm gà, sán
lợn, với đủ hình ảnh rùng rợn minh họa ngày ngày chiếu trên ti vi, người ta vẫn
cứ nhồm nhoàm tống vào bụng những bát tiết canh sống sít, nhiễm bẫn và đầy độc
tố. Dù biết rõ chân gà từng bị thối, tẩm cả thuốc ướp xác, được cảnh báo rộng
rãi cũng không khiến những trai thanh gái lịch ngồi lê la trên vỉa hè thưởng
thức chúng một cách ngon lành. Cứ như họ tranh thủ ăn lấy ăn để cho kịp ngày tận
thế!” (Rượu độc, thực phẩm bẩn và
giống nòi Việt)[1,tr.274]. Tự hỏi, chúng ta có đói khát, có thiếu thốn hay
thèm nhạt nữa đâu mà cái gì cũng tống vào miệng, “chẳng lẻ mọi người quên rằng chết vì miếng ăn là cái chết vô nghĩa
nhất”[1,tr.274]. Chỉ đơn giản là chuyện mua bán, trao đổi nhưng lại trao
đổi thứ “gà rác” – thứ mà thế giới họ vứt đi để đem về làm thức ăn cho chính
dân tộc mình, ảnh hưởng đến giống nòi dân tộc thì thiết nghĩ người Việt cần xem
lại vẫn đề ăn uống của mình một cách nghiêm túc. “Chỉ vì thói phàm ăn mà mọi tuyên truyền về an toàn thực phẩm hiện nay
đang giống như nước đổ đầu vịt”. “Điều thấy trước là rượu và thực phẩm bẩn đang
tham gia tích cực vào quá trình làm suy thoái giống nòi Việt.Đừng ai nghi ngờ
điều này!”( Rượu độc, thực phẩm bẩn
và giống nòi Việt)[1,tr.275].
Vấn đề giao tiếp không chỉ thể hiện qua văn hóa ẩm thực của
người Việt mà nó còn biểu hiện ở văn hóa đọc.Người Việt không hề lười đọc, bằng
chứng là số chữ họ lướt quá mỗi ngày.Nhưng tại sao vẫn có sự kêu ca rằng họ
lười đọc? Để trả lời cho câu hỏi này, Tạ Duy Anh đã dẫn ra rất nhiều thông tin
mà hằng ngày chúng ta vẫn đọc trên các trang báo mạng. Nhà văn tìm thấy ở đó là
những tệ nạn, những thông tin giật gân, không tình ái thì cũng bạo lực, không
giết vợ thì cũng bóp cổ con; hay sự “ăn
chơi cháy trời của các sao, sự õng ẻo của các “ranh hài” “ranh thủ” “ranh ca”
nào đó” [1,tr.17]. Đó là những gì mà hằng ngày người Việt đang nhồi nhét
vào đời sống tinh thần của họ. Không thấy đâu những vấn đề như Biển Đông, chống
tham nhũng, chỉnh đốn Đảng,… thậm chí vấn đề học thuật, lich sử, mỹ học càng
hiếm hoi. Lý giải cho hành động đọc kì lạ này của người Việt, Tạ Duy Anh đặt ra
câu hỏi: “Hay là người Việt đã qua no đủ
với những thứ cao cấp ấy?” hoặc “xét
như tình trạng hiện nay, cũng cho câu trả lời tương tự, rằng có thể người Việt
đã no kiến thức, no thẩm mỹ, no triết học, no giáo dục: dân gần một trăm triệu,
mà sách cao cấp nói về các lĩnh vực ấy, in ra chỉ ngàn bản vẫn ế trầy ế trật?”(Càng ăn càng đói)[1,tr.18].Nhưng đọc
nhiều thế mà văn hóa ứng xử của người Việt lại ngày có sự xuống cấp trầm trọng,
“vậy là đọc đấy mà vẫn không phải là đọc;
bội thực thông tin mà vẫn đói văn hóa, đói học vấn, đói kỹ năng sống; thừa mứa
chữ mà vẫn viết chẳng thành câu…” Ngạn ngữ có câu: “Hãy xem anh đọc gì, tôi sẽ biết anh là ai? Suy rộng ra thì cũng có thể
nói: “Hãy xem mọi người đọc gì, sẽ biết dân trí ở đó như thế nào?”[1,tr.19].
Nhà văn chỉ dừng lại ở đó, phần còn lại ông xin để cho người đọc tự đánh giá.
Nhưng ông cũng rút ra vào cái tên cho văn hóa ứng xử của người Việt như sau: “Hội chứng càng ăn càng đói, càng nhiều càng
thiếu, càng giàu càng nghèo, càng văn minh càng man rợ…” [1,tr.19].
Tiếp theo của văn hóa đọc là văn hóa ứng xử trong giao tiếp
với người khác. Người Việt vốn nổi tiếng với đức tính mến khách, chu đáo nhưng
giờ đây nhìn cách họ đối xử với những vị khách nước ngoài thật sự làm ta phải
suy nghĩ rất nhiều. “[…] nhiều du khách
nước ngoài đã rất sợ gặp người Việt Nam vì họ biết thể nào cũng bị quấy rầy.
Không cười cợt vô duyên hay nhìn họ như nhìn khủng long tái sinh, thì cũng
buông ra vài câu tiếng Anh bồi, nhiều khi tục tĩu vô ý do không hiểu, rất mếch
lòng khách. Rồi ở nhà hàng nào cũng oang oang vừa ăn uống vừa làm điếc tai
người chung quanh, phun cả nước bọt vào khách…”(Chặt, chém vào tương lai)[1,tr.23]. Đó là lối hành xử văn minh của
người Việt sao? Cứ như thế này hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế sẽ chỉ là
một đất nước “vô kỉ luật”.
Xưa nay người Việt vẫn có câu tục ngữ “Đói cho sạch, rách cho
thơm” để làm phương châm sống cho mình. Nhưng đặt trong xã hội ngày nay, ta
thấy một số bộ phận đã quên mất phải ứng xử đẹp như thế. Điển hình cho điều
này, Tạ Duy Anh đã bày tỏ thái độ đau lòng trước hành động “hôi bia” ở vòng
xoay Tam Hiệp, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Thật xấu hổ cho hành động của một đất
nước văn minh. Đó không còn là văn hóa ứng xử của người Việt mà đang là mầm
móng cho sự hình thành căn bệnh vô cảm, dẫm đạp lên sự đau khổ của người khác
mà sống. “Con người sở dĩ biết hành động
phải lẽ, biết dừng lại khi đến ranh giới của sự tệ hại, phần nhiều không phải
do họ sợ bị trừng phạt, mà vì nó được ngăn bởi bức tường đạo đức. Ngoài ra, và
bền vững hơn, chính là cảm giác của họ về sự xấu hổ.”(Xấu hổ quá)[1,tr.43]. Con người còn biết xấu hổ thì ta còn hy vọng
vào nhân tính của họ. Nhưng với những người có hành động “hôi bia” vừa rồi phải
chăng đã mất đi nhân tính? Qua việc này, chúng ta cần có một sự nhìn nhận đúng
đắn hơn thái độ sống của người Việt. Quan trọng hơn đối với bộ phận kia hãy để
xã hội lên án, nguyền rủa, bài xích và phán xét về mặt đạo đức, văn hóa. Có thể
là cái nhìn bi quan, nhưng cứ tiếp tục thì một ngày người Việt sẽ tự đánh mất
bản chất lương thiện của mình.
Như vậy qua cái nhìn của nhà văn Tạ Duy Anh ta rút ra được
rất nhiều thứ cho văn hóa ứng xử trong giao tiếp của người Việt hiện nay. Nếu
cứ trên đà như thế này thì người Việt chúng ta sẽ ngày càng hao mòn trí lực,
suy đồi đạo đức.Không thể coi nhẹ những vấn đề mà Tạ Duy Anh gọi là “chuyện nhỏ
như con thỏ” này được.Và người Việt phải lục tìm để học lại những truyền thống,
bản sắc mà ông bà xưa để nhanh chóng xóa bỏ đi lối ứng xử mất nhân tính như
hiện nay.
Một nhà văn Nga từng nói: “Nơi lạnh
nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương”. Thật vậy, sống
giữa một nơi không có yêu thương, con người dửng dưng với nhau thì khác nào
sống giữa địa ngục. Vậy mà, người Việt chúng ta đang dần phát thảo nên cái địa
ngục đó với thái độ vô cảm đến đáng sợ.
Chẳng cần đâu xa, Tạ Duy Anh chỉ đề cập đến những sự việc
hằng ngày đang diễn ra đã đủ để chúng ta thấy con người trong xã hội này “đối
xử” với nhau như thế nào. Đó là câu chuyện liên quan đến “Mạng chó, mạng người” – khi mà mạng sống của một con người được đem
ra so sánh với mạng của một con chó – để rồi đặt ra câu hỏi mạng nào quý hơn? “Chỉ cần nghĩ như thế đã có thể coi là một kẻ
độc ác, vô đạo đức. Không vật gì trên trần gian có thể so ngang với một con
người, về mọi phương diện” [1,tr.25]. Tất nhiên nhà văn vẫn đứng trên cả
hai lập trường của người có chó bị trộm, và kẻ đi trộm chó rằng: “Ở vị trí những người ra tay đánh chết kẻ
trộm chó, tôi thấy hành động đó chẳng có gì là quá đáng”; “Ở vị trí của tên
trộm chó, tôi thấy đó là một nghề nguy hiểm nhưng khá béo bở”[1,tr.27]. Và
ông nhận ra bên nào cũng có cái lý của nó, nhưng ở đây ông chỉ xét trên diện
rộng để đưa ra một vấn đề lớn cần suy ngẫm “Rõ
ràng trong xã hội Việt Nam đang có hiện tượng tính mạng con người bị coi rẻ.
Đây mới là điều thật đáng sợ”( Mạng
chó mạng người)[1,tr.28]. Song song với tính mạng bị coi rẻ đó là cánh cửa
hé mở cho lối sống vô cảm, tàn nhẫn của người Việt.
Có lẽ từ coi thường mạng sống mà người Việt sẵn sàng “Ung dung nhìn người chết”. Đây cũng
chính là tiêu đề một bài viết trong tập Làng quê đang biến mất?của Tạ Duy
Anh khi ông bàn về thái độ dửng dưng của người Việt đối với đồng loại của mình.
Ông dẫn chứng ra sự việc từng giật tít báo một thời như: “Sự kiện em sinh viên Đinh Thị Phương Thảo tử vong vì bị nước cuốn trôi
ngay giữa trung tâm một thành phố hiện đại nhất nước”; “Cách đây dăm bảy năm,
một thiếu phụ bị điện giật chết khi vô tình đi sát cột điện tại một khu phố cũ
của Hà Nội”; “Vừa mới năm 2012, một cây xà cừ quá nặng phần ngọn, bật gốc đổ
trên đường Lò Đúc, đè chết tươi một lái xe taxi”; … [1,tr.36]. Nhưng tất cả
những vụ ấy đều có một điểm chung, đó là “Người
chết không biết vì sao mình chết, còn người gián tiếp gây ra cái chết đó thì
vẫn cứ nhan nhở cười nói, ung dung thanh thản sống những tháng ngày tươi đẹp,
không bị cắn rứt mảy may”, “Không ai phải chịu trách nhiệm lương tâm hay hình
sự về cái chết đau lòng đó”, “mặc nhiên được coi là một tai nạn thông thường” và “thậm chí ngay cả thân nhân của người chết
cũng mặc nhiên coi đó chỉ là thiên tai!”(Ung dung nhìn người khác chết)[1,tr.36]. Tất yếu với những sự kiện
đó báo chí và dư luận đều quan tâm nhiều ngày nhưng chỉ ở mức quan tâm suông.
Từ hiện thực đang diễn ra, Tạ Duy Anh chỉ ra cho bạn đọc thấy được một lối sống
tàn bạo ăn sâu trong lòng xã hội Việt: “đó
là sự vô cảm tập thể, đi kèm theo nó là thói quen coi rẻ mạng sống của người
khác”. “Khi người ta thản nhiên nhìn người khác chết, cũng có nghĩa là cái chết
đang ở ngay bên cạnh họ. Khi cả xã hội rơi vào trạng thái vô cảm, cái xã hội đó
đang để tương lai phía sau mình và sự rủi ro nằm sẵn ngay trên giường của mỗi
phòng ngủ” (Tạ Duy Anh – Ung dung
nhìn người khác chết)[1,tr.39].
Ta vẫn biết ngành y xưa giờ là một ngành giàu y đức, là ngành
có cái tâm, có sự yêu thương. Nhưng ngày nay, y đức dù được mò tận sâu đáy biển
có khi vẫn chưa ra: Vẫn có một số bộ phận những y, bác sĩ tắc trách với cái
nghề của mình. Thay vì cứu người, họ vô tình hay cố ý đã đẩy bệnh nhân của mình
vào cái chết.Mới đây vụ việc xảy ra kinh hoàng ở thẩm mỹ viện Cát Tường đã làm
ta phải suy ngẫm. Ông “bác sĩ hung thần
Nguyễn Mạnh Tường không chỉ thực hiện hành vi phi tang hèn hạ”[1,tr.285] mà
quan trọng ông đã ném toàn bộ ngành y tế , ném cả lương tâm, trái tim của một
vị thầy thuốc xuống sông Hồng. Hay những câu chuyện sơ ý của ngành y tế đang
diễn ra hằng ngày cũng rung rợn không kém: “Một
điều dưỡng viên làm rơi cả năm đứa trẻ sơ sinh xuống đất từ độ cao hàng mét tại
một bệnh viện phụ sản luôn được xếp hạng cao ở Hà Nội. […]; “Một đứa bé sơ sinh
chết chỉ vì bị tiêm… nhầm thuốc như trường hợp ở Vinh, Nghệ An”; “Cho đến
chuyện ba đứa trẻ chết một lúc, tại một địa điểm sau khi tiêm vắc xin phòng
viêm gan B, như ở bệnh viện Đa khoa Hướng Hóa, Quảng Trị”… (Y đức và chuyện mò kim đáy bể)[1,tr.292].
Có rất nhiều lý do tính chất nghề nghiệp để bào chữa cho những hành động này.
Nhưng sâu xa nhất, thiết nghĩ rằng do tính mạng con người đang bị coi thường,
chưa thật sự có trách nhiệm với nghề, với hành động của mình. “Những cái chết chỉ có giá trị cung cấp một
hiện thực về sự vô tăm tích của kiếp người” (Y đức và chuyện mò kim đáy bể)[1,tr.295].Sao lại như thế? Bởi vì
trước những trường hợp trên đôi khi lãnh đạo ở gần đó nhưng họ vẫn có lý do vô
cùng chính đáng cho sự không thể có mặt tại hiện trường để giải quyết của mình.
Đó chẳng phải là một biểu hiện rõ nhất cho lối sống vô cảm, thờ ơ trước cái chết
của người khác? Không chỉ lối sống vô cảm , mà trên hết y đức đang từng ngày
đánh mất đi bản chất đạo đức của mình.
Lối sống vô cảm, thoái hóa đạo đức còn được biểu hiện ở việc
con người dửng dưng với dư luận, với cuộc sống đang diễn ra với rất nhiều vấn
đề.Một điều chúng ta có thể thấy “sợ dư
luận là một thái độ còn lành mạnh về mặt đạo đức”. “Vì sợ dư luận mà người
ta biết đứng lại trước ranh giới của tội
ác. Vì biết sợ dư luận mà người ta điều chỉnh hành vi ngay khi nó mới còn trong
dự định, để không bị lên án.Vì biết sợ dư luận mà kẻ mạnh không thể áp đặt
những tiêu chuẩn phi lý cho kẻ yếu hơn mình. Tức là dư luận góp vào việc tạo ra
công lý, thậm chí tạo ra sự công bằng”(Nhờn
dư luận)[1,tr.238]. Nhưng giờ đây dường như việc “sợ dư luận” đã là quá khứ
khi mà xã hội sự kiện nóng này chưa ngã mũ đã xuất hiện sự kiện khác, dư luận
sự kiện theo thế mà tự đi đến kết thúc. Nhờn dư luận là một “căn bệnh đã hiện hành, có triệu chứng lâm
sàng, có biểu hiện bệnh lý rõ ràng và có sức hủy hoại rất khủng khiếp”.Đây
cũng chính là một biểu hiện của suy thoái đạo đức mà một khi lòng tin đã mất đi
chẳng còn cách nào cứu chữa.
Lối sống vô cảm kéo theo đó là sự thoái hóa đạo đức nếu không
được điều chỉnh kịp thời sẽ biến người Việt thành những con người vô nhân tính.
Tạ Duy Anh trên cơ sở khách quan đã đưa ra cái nhìn tổng quát cho lối sống này,
hơn ai hết qua đó ông vẫn nuôi một hy vọng sẽ thấy người Việt lại cư xử với
nhau theo đúng nghĩa “Lá lành đùm lá rách”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng” như
truyền thống đoàn kết xưa nay của dân tộc Việt Nam. Song song với lối sống vô
cảm, người Việt đang dần làm mờ đi những giá trị nhân tính.Ở những bài viết của
mình, Tạ Duy Anh đã đưa ra những biểu hiện, thực trạng của thái độ sống thiếu
tình người của người Việt.Đặt vào giới trẻ, những con người trẻ bốc đồng, nông
cạn với suy nghĩ ích kỉ chỉ nghĩ cho bản thân mình, đã vô tình làm ảnh hưởng
đến những người khác. Nhà văn đã dẫn ra hành vi vẫn còn gây chấn động dư luận –
kẻ thủ ác Nguyễn Văn Dũng đã nhẫn tâm tạt axit vào người mà anh yêu đơn phương.
Hành động này theo nhà văn không thể lý giải là cuồng yêu, bởi lẽ nó có động
cơ, có mục đích và có cả suy nghĩ. Và yêu không có khái niệm làm tổn thương
người mình yêu như thế, bởi lẽ yêu là dâng hiến, là hy sinh cho người mình yêu,
là mong người mình yêu hạnh phúc.Vậy hành động này phải lý giải ra sao? Tạ Duy
Anh cho rằng “gốc rễ của vấn đề chính là
ở hai chữ suy đồi” hay chính là con người đang đánh mất đi tính người, một
con người có lí trí, có suy nghĩ sẽ không hành động như thế, chỉ có con vật
hành động theo bản năng mới làm ra hành động dã man đó. Không riêng gì tình yêu, ở mối quan hệ giữa
con người với con người cũng đang vô tình đánh mất đi tính người – thứ làm nên
giá trị của một con người.
Một con người đúng nghĩa họ sẽ không có những hành động đối
xử tàn bạo với đồng loại của mình. Không chỉ con người, ngay cả động vật chúng
còn biết bảo vệ đồng loại kia mà, sao con người có thể làm tổn thương những
người chung một bọc với mình kia chứ! Người lớn đối xử với nhau tàn nhẫn có thể
lý giải được, những trẻ con, chúng làm gì nên tội mà người lướn đan tâm bạo
hành, hành hạ, đánh đạp chúng một cách dã man như thế?“Tại sao càng phát triển về mặt vật chất, thì lại càng có dấu hiệu bệnh
hoạn trong thái độ ứng xử? Khi tra tấn, hành hạ một đứa trẻ con, đẩy nó ra
đường, biến nó thành phương tiện kiếm tiền, bắt nó phải ăn uống như súc vật,
thậm chí giết hại chúng… thì đấy đâu phải là hành vi của con người. Nhưng những
kẻ thực hiện điều đó thì rõ ràng cũng không phải là loài vật. Thậm chí đôi ba
người trong số đó còn đội trên đầu chiếc mũ trí thức mỹ miều nữa”.(Hội chứng hành hạ trẻ con)[1,tr.258].
Sự biến dạng nhân cách hùa với tội ác đã biến họ thành những con người thú
tính, họ có cái lý cho hành động của mình rằng chẳng ai thương họ sao họ phải
thương người khác.
Lối sống vô cảm chính là tiền đề của những thói xấu, tội ác,
dự suy đồi và cướp đi tính người của người Việt hiện nay. “Từ thói vô cảm tất yếu đẻ ra sự hèn nhát, giả dối, cơ hội, ngụy biện,
gian manh, đểu cáng và cuối cùng là tội ác”( Kính thưa các trẻ con), hay “sống
trong một xã hội vô cảm nguy hiểm như thế nào? Vì nghĩ rằng không ai xả thân
cho mình, bạn cũng sẽ lựa chọn cách hành xử tương tự với người khác, như sự báo thù và sự khôn ngoan […] thì bước
ra đường là bạn cũng đồng nghĩa là bạn đang lao vào chốn nguy hiểm, nguy hiểm
hơn cả đi một mình trong rừng rậm đối mặt với bóng đêm và thú dữ” ( Kính
thưa các trẻ con)[1,tr.223]. Xã hội sẽ trở thành như thế nào khi căn bệnh
vô cảm ngày càng ăn sâu vào tiềm thức của người Việt.
Nhưng trong rất nhiều tồn đọng tiêu cực của người Viêt, Tạ
Duy Anh đã reo mừng khi ông tìm ra một niềm hy vọng – niềm hy vọng đó được đặt
ra bởi trẻ con. Nói theo nhà văn thì “Các
trẻ con nhân cách lớn ấy thực sự đã dạy cho lũ người lớn nhân cách bé bài học
đơn giản về tinh thần xã thân” (Tạ
Duy Anh)[1,tr.223]. Ông đưa ra những dẫn chứng rất cụ thể , đầu tiên là
trường hợp Nguyễn Văn Nam (lớp 12T7, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An) đã
xã thân lao vào dòng nước lũ để cứu 4 em nhỏ . Nếu lúc đó, em dừng lại và suy
nghĩ như người lớn nghĩ rằng em sẽ bị nước cuốn hay không cứu được thì cũng
chẳng ai khép em vào tội hèn nhát vì em vẫn là trẻ con.Nhưng em đã không làm
như thế. Em đã làm được một việc rất có ý nghĩa và xứng đáng với hai tiếng “anh
hùng”. Hay “chắc chắn không người lớn nào
trong số chúng ta đủ lòng yêu thương một cách vô tư để có thể ròng rã cõng bạn
đến trường suốt 3 năm, 5 năm, 9 năm… như em Nguyễn Thị Định ở thôn Hội Phú, xã
An Ninh Tây, huyện Tuy An, Phú Yên; hoặc như em Nguyễn Thị Lân, học sinh lớp 11B8,
Trường THPT Lê Văn Hưu, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa và hàng trăm các em khác
trên cả nước” (Kính thưa các trẻ
con)[1,tr.223,224]. Cuộc sống vẫn còn rất nhiều niềm tin được gieo bởi trẻ
con, Tạ Duy Anh cảm thấy vui mừng khi ông vào Google gõ cụm từ “cõng bạn đến
trường” đã cho ra 1.400.000 kết quả.
Cùng với sự vui mừng ông cảm thấy xấu hổ cho những người lớn.Trong khi bọn trẻ
vô tư, sống chân thành thì người lớn lại đối xử tàn nhẫn, cay độc với nhau.
Cuối cùng, nhà văn tự khiêm tốn mà nói rằng: “Xin những người lớn đừng sốc nếu đến lúc nào đó, mỗi khi mở miệng trước
bọn trẻ, thay vì cao đạo răn dạy, chúng ta phải nói: Kính thưa các trẻ con!”( Kính thưa các trẻ con) [1.tr.225].
Qua Làng quê đang biến mất? Tạ Duy Anh
đã một lần nữa cho ta thấy bức tranh hiện thực về con người hiện đại. Con người
ấy vẫn còn ẩn chứa quá nhiều điều tiêu cực và đang dần đánh mất đi bản tính
người của mình. Nhà văn vẫn thế, vẫn chỉ nêu ra vấn đề còn cái công việc đánh
giá ông vẫn nhường lại cho độc giả.Nhưng bất cứ ai cũng nhìn thấy một góc nào
đó của chính chúng ta trong đó.Không phải tất cả người Việt ngày nay đều như
thế, tất nhiên, chỉ là trên tinh thần ở một số bộ phận người.Nhân đây, Tạ Duy
Anh đã đặt ra cho chính chúng ta một dấu hỏi thật lớn rằng “Người Việt phải chăng đang đánh mất đi những
đáng quý của mình?”
Làng quê đang biến mất?của Tạ Duy Anh thực sự là một bức tranh thu nhỏ của
góc khuất xã hội Việt Nam đương thời. Ở đó ta có thể tìm thấy biết bao loại
người, biết bao mảng tối của nhiều ngành nghề.Nhiều ý kiến cho rằng, Tạ Duy Anh
có bi quan quá không khi viết toàn những cái xấu của đất nước? Không phải nhà
văn bi quan, mà ông chỉ đang cố gắng khơi dậy những thứ mà con người ta đang cố
che đậy đi. Phàm khi cái gì càng cố che đậy, không chịu thừa nhận để sửa đổi
thì sẽ rất nguy hiểm cho xã hội. Ông chỉ đang làm công việc của một con người
có tình yêu với loài người, với cuộc sống, với quê hương đất nước.
Làng quê đang biến mất?còn là một thành công ở phương diện nghệ thuật. Sau
cuốn “Ngẫu hứng sáng trưa chiều tối”
thì đây là tác phẩm thứ hai Tạ Duy Anh sáng tác ở mảng bình luận xã hội. Ông đã
chứng minh cho ta thấy rằng, văn nghị luận không hề nhàm chán như ta vẫn nghĩ,
và không phải cứ có nhân vật thì tác phẩm mới trở nên hấp dẫn. Mà giọng điệu,
sự chân thành của chính tác giả cũng chính là một trong những yếu tố kéo người
đọc lại gần tác phẩm hơn.
Làng quê đang biến mất?còn là một tác phẩm thể hiện được tài năng của Tạ Duy Anh.
Ông không chỉ là một người viết truyện ngắn, tiểu thuyết hay mà còn là một
người bàn luận về vấn đề xã hội tuyệt vời.Đồng thời tác phẩm khẳng định tài
năng của Tạ Duy Anh trên một bình diện mới – bình luận xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Tạ
Duy Anh (2014), Làng quê đang biến mất?, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
2.
Tạ
Duy Anh (2002), Đi tìm nhân vật, NXB
Dân tộc, Hà Nội.
3.
Tạ
Duy Anh (2008), Truyện ngắn chọn lọc,
NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
4.
Tạ
Duy Anh (2007), Người khác, NXB Hội
nhà văn, Hà Nội.
5.
Phùng
Hoàng Anh (06/2014), Báo Đất Việt, Hà Nội.
6.
Quỳnh
Anh (10/07/2014), Làng quê đang biến mất - cái nhìn vào góc khuất xã hội, Vnexpress.net.
7.
Lê
Tiến Dũng (2005), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
8.
Lê
Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
* Nguồn: Dự thảo Kỷ yếu Hội nghị NCKH Ngữ văn năm 2017, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Quy Nhơn
Bình Định, tháng 5 năm 2017
0 nhận xét:
Đăng nhận xét