Chủ Nhật, 20 tháng 5, 2018

ĐẠI TỪ NHÂN XƯNG – MỘT PHƯƠNG DIỆN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ NÔM NGUYỄN KHUYẾN (Phan Đình Phùng – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K18, ĐHQN)



            1. Thi đỗ Tam nguyên, từng làm quan Bố chính tận Quảng Ngãi, từng cáo quan về vườn Bùi chốn cũ ở ẩn, cuộc đời Nguyễn Khuyến có thể nói đã đi qua một thời kỳ nhiều biến động thăng trầm với biết bao buồn vui vinh nhục. Cái tôi trữ tình thơ ông vì thế cũng thật đa dạng, phong phú. Trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, cái tôi trữ tình được thể hiện thành công qua nhiều phương diện. Trong đó, một phương diện nhỏ nhưng độc đáo là nghệ thuật sử dụng đại từ nhân xưng của nhà thơ.


            Theo Nguyễn Tài Cẩn, “đại từ là một từ loại có chức năng làm từ để chỉ trỏ, thay thế(1), trong đó, đại từ nhân xưng là những đại từ dùng để chỉ trỏ, thay thế cho người. Trong tiếng Việt, đại từ nhân xưng có số lượng lớn và dạng thức biểu hiện khá đa dạng, phức tạp. Chúng được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ giao tiếp thường ngày. Trong ngôn ngữ văn chương, đại từ nhân xưng cũng thường xuyên được sử dụng, nhất là trong sáng tác của các tác giả có sự biểu hiện mạnh mẽ của ý thức cái tôi cá nhân. Thơ Nôm Nguyễn Khuyến là một trong những minh chứng cho điều này.
            2. Khảo sát thơ Nôm Nguyễn Khuyến, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, nhà thơ thường xuyên tự xưng với nhiều hình thức khác nhau. Đại từ nhân xưng trong thơ Nôm của ông do đó không những có số lượng lớn mà còn khá đa dạng, thuộc nhiều kiểu thức khác nhau.
            Theo khảo sát của Biên Minh Điền, trong 107 bài thơ Nôm của Yên Đổ, có 59 lần tác giả xưng “tôi”, 18 lần xưng “ta”, 6 lần xưng “tớ”, 8 lần xưng “ông”, 3 lần xưng “mình”, 2 lần xưng “em” và một số lần xưng “tao”... Từ kết quả khảo sát này đã đưa đến nhận định: “Dường như không còn một đại từ nhân xưng ngôi một nào trong tiếng Việt mà nhà thơ không dùng đến(2).
            Không chỉ xuất hiện với số lượng lớn, nhiều dạng thức, đại từ nhân xưng trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến còn được sử dụng một cách độc đáo, có chủ đích nghệ thuật. Chẳng hạn, có những trường hợp trong một câu thơ đại từ nhân xưng xuất hiện nhiều lần: Nghĩ tôi, tôi gớm cái mình tôi; Nghĩ ta, ta lại chỉ thương ta; Ông chẳng hay ông tuổi đã già;…
            Hoặc, trong một số bài thơ, đại từ nhân xưng ngôi nhất số ít được sử dụng trong gần như tất cả các câu, như ở bài Mừng anh vợ:
                        Ấy năm sinh bác cũng sinh tôi
                        Số bác xem ra khác số tôi
                        Cái nét hào hoa tôi kém bác
                        Con đường khoa hoạn bác thua tôi
                        Sự đời đã trải tôi cùng bác
                        Tuổi thọ còn dài bác với tôi
                        Tính tuổi xuân thu trăm lẻ chục
                        Nửa phần về bác nửa phần tôi
            3. Theo nhà nghiên cứu Biện Minh Điền, “Nguyễn Khuyến là người có ý thức cao về sự hiện hữu của cái “tôi” - “ngã” - con người cá nhân mình trước vũ trụ, đất trời, trước cuộc đời và con người, trước cả chính mình. Điều này trước hết được thể hiện ở việc ông tự xưng (bằng đại từ nhân xưng) trong thơ(3). Chính nhờ việc sử dụng một cách chủ động, linh hoạt lớp đại từ nhân xưng mà nhà thơ đã thể hiện thành công cái tôi trữ tình trong thơ mình. Lớp đại tự nhân xưng xuất hiện với số lượng lớn, đa dạng về dạng thức (gần như không thiếu một đại từ nhân xưng ngôi một nào trong tiếng Việt), linh hoạt về cách kết hợp đã góp phần thể hiện nổi bật nhưng phương diện, sắc thái của cái tôi trữ tình Nguyễn Khuyến trong thơ.
            Có lúc, Nguyễn Khuyến sử dụng những đại từ nhân xưng có tính chất gần gũi để thể hiện tình cảm chân thành, quý mến với bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm, với những người dân lao động mà ông bắt gặp, tiếp xúc. Chẳng hạn:
            Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác
            Tôi lại đâu trước bác mấy ngày
            Làm sao bác vội về ngay
            Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời
                                                (Khóc Dương Khuê)
            Chú Đáo bên người lên với tớ
            Ông Từ ngõ chợ lại cùng ta
                                                (Lên lão)
            Đầu trò tiếp khách trầu không có
            Bác đến chơi đây ta với ta
                                                (Bạn đến chơi nhà)
            Có lúc, nhà thơ dùng nhiều đại từ nhân xưng thích đáng với giọng điệu trịch thượng, mỉa mai hoặc coi thường để châm biếm, giễu nhại nhiều loại đối tượng xấu trong xã hội đương thời mà ông chứng kiến, coi thường. Chẳng hạn:
            Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông
            Nó lại lôi ông đến giữa đồng
                                                (Hỏi tham quan tuần mấp cướp)
            Anh mừng cho chú đỗ ông nghè
            Chẳng đỗ thì trời cũng chẳng nghe
                                                (Mừng ông nghè mới đỗ)
            Nhiều khi, hằn học với thế thái đảo điên, nhân tình đen bạc, nhà thơ tự xưng “tao”, “ông” với một giọng điệu bất bình, bức xúc:
            ­- Ăn mày chớ có ăn tao nhé
            - Quyết chí phen này trang trải sạch
            Cho đời rõ mặt cái thằng tao
                                                (Than nợ)
            Đặc biệt, thi nhân thường dùng những đại từ như “mình”, “tớ”, “ta”, “ông” để tự ý thức, phản tỉnh hoặc tự trào bản thân. Ở những trường hợp này, đại từ nhân xưng thường được sử dụng với tần số xuất hiện cao hơn, cùng với đó là giọng thơ trầm lắng hơn, nhiều khi chua chát. Ví như:
            - Nghĩa ta, ta lại chỉ thương ta…
            - Ông chẳng hay ông tuổi đã già
            ­- Nghĩ ra ông sợ cái ông này
            - Nghĩ mình vườn cũ vừa lui bước
            ­- Năm nay lão đã bảy mươi tư
            Rằng lão rằng quan tớ cũng ừ
                                                (Đại lão)
            Qua những ngữ liệu trên, có thể thấy, đại tự nhân xưng ngôi một là lớp tự rất độc đáo trong ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Khuyến. Lớp từ này xuất hiện với số lượng lớn và nhiều dạng thức, được nhà thơ sử dụng một cách thích đáng, chủ động; góp phần lớn vào việc thể hiện sinh động những phương diện, cung bậc của cái tôi trữ tình của ông Tam nguyên đất Yên Đổ trong thơ.
            4. Trong thơ Nôm, trừ một lần gián tiếp nói về mình thông qua cương vị là quan triều Nguyễn (Đề vào mấy chữ trong bia/ Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu - Di chúc), Nguyễn Khuyến không tự xưng danh (xưng tên riêng) như các nhà thơ trước ông (Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như; Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương mới quệt rồi), cùng thời với ông (Vị Xuyên có Tú Xương/ Dở dở lại ương ương) và cả sau thời ông (Trời sinh ra bác Tản Đà; Chàng Huy Cận ngày xưa hay sầu lắm). Thế nhưng hiếm có nhà thơ nào lại sử dụng hệ thống đại tự nhân xưng với số lượng lớn và đa dạng như ông. Đặc biệt hơn, lớp đại từ này lại được nhà thơ sử dụng chủ động, linh hoạt và phát huy được giá trị của chúng trong việc thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ. Đây là một trong những dấu ấn độc đáo của nhà thơ kép tài hoa Nguyễn Khuyến trong thơ Nôm.

Chú thích:
1. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H., tr.338.
2. Biện Minh Điền (2008), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Nxb ĐHQG Hà Nội, H., tr.164.
3. Biện Minh Điền, Sđd, tr.161.



Thông tin tác giả
            - Họ tên: Phan Đình Phùng
            - Học viên lớp Cao học văn học Việt Nam K18, trường Đại học Quy Nhơn
            - SĐT: 0934. 797. 138
           

0 nhận xét:

Đăng nhận xét