1.
Thi đỗ Tam nguyên, từng làm quan Bố chính tận Quảng Ngãi, từng cáo quan về
vườn Bùi chốn cũ ở ẩn, cuộc đời Nguyễn Khuyến có thể nói đã đi qua một thời kỳ
nhiều biến động thăng trầm với biết bao buồn vui vinh nhục. Cái tôi trữ tình
thơ ông vì thế cũng thật đa dạng, phong phú. Trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến,
cái tôi trữ tình được thể hiện thành công qua nhiều phương diện. Trong đó, một
phương diện nhỏ nhưng độc đáo là nghệ thuật sử dụng đại từ nhân xưng của nhà
thơ.
Theo Nguyễn Tài Cẩn, “đại từ là một từ loại có chức năng làm từ để
chỉ trỏ, thay thế” (1), trong đó, đại từ nhân xưng là những đại
từ dùng để chỉ trỏ, thay thế cho người. Trong tiếng Việt, đại từ nhân xưng có
số lượng lớn và dạng thức biểu hiện khá đa dạng, phức tạp. Chúng được sử dụng
phổ biến trong ngôn ngữ giao tiếp thường ngày. Trong ngôn ngữ văn chương, đại
từ nhân xưng cũng thường xuyên được sử dụng, nhất là trong sáng tác của các tác
giả có sự biểu hiện mạnh mẽ của ý thức cái tôi cá nhân. Thơ Nôm Nguyễn Khuyến
là một trong những minh chứng cho điều này.
2.
Khảo sát thơ Nôm Nguyễn Khuyến, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, nhà thơ
thường xuyên tự xưng với nhiều hình thức khác nhau. Đại từ nhân xưng trong thơ
Nôm của ông do đó không những có số lượng lớn mà còn khá đa dạng, thuộc nhiều
kiểu thức khác nhau.
Theo khảo sát của Biên Minh Điền,
trong 107 bài thơ Nôm của Yên Đổ, có 59 lần tác giả xưng “tôi”, 18 lần xưng
“ta”, 6 lần xưng “tớ”, 8 lần xưng “ông”, 3 lần xưng “mình”, 2 lần xưng “em” và
một số lần xưng “tao”... Từ kết quả khảo sát này đã đưa đến nhận định: “Dường như không còn một đại từ nhân xưng
ngôi một nào trong tiếng Việt mà nhà thơ không dùng đến” (2).
Không chỉ xuất hiện với số lượng
lớn, nhiều dạng thức, đại từ nhân xưng trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến còn được sử
dụng một cách độc đáo, có chủ đích nghệ thuật. Chẳng hạn, có những trường hợp
trong một câu thơ đại từ nhân xưng xuất hiện nhiều lần: Nghĩ tôi, tôi gớm cái mình tôi; Nghĩ ta, ta lại chỉ thương ta;
Ông chẳng hay ông tuổi đã
già;…
Hoặc, trong một số bài thơ, đại từ
nhân xưng ngôi nhất số ít được sử dụng trong gần như tất cả các câu, như ở bài Mừng anh vợ:
Ấy năm sinh bác cũng sinh tôi
Số bác xem ra khác số tôi
Cái nét hào hoa tôi kém bác
Con đường khoa hoạn bác thua tôi
Sự đời đã trải tôi cùng bác
Tuổi thọ còn dài bác với tôi
Tính tuổi xuân thu trăm lẻ chục
Nửa phần về bác nửa phần tôi
3.
Theo nhà nghiên cứu Biện Minh Điền, “Nguyễn
Khuyến là người có ý thức cao về sự hiện hữu của cái “tôi” - “ngã” - con người
cá nhân mình trước vũ trụ, đất trời, trước cuộc đời và con người, trước cả
chính mình. Điều này trước hết được thể hiện ở việc ông tự xưng (bằng đại từ
nhân xưng) trong thơ” (3). Chính nhờ việc sử dụng một cách chủ
động, linh hoạt lớp đại từ nhân xưng mà nhà thơ đã thể hiện thành công cái tôi
trữ tình trong thơ mình. Lớp đại tự nhân xưng xuất hiện với số lượng lớn, đa
dạng về dạng thức (gần như không thiếu một đại từ nhân xưng ngôi một nào trong
tiếng Việt), linh hoạt về cách kết hợp đã góp phần thể hiện nổi bật nhưng
phương diện, sắc thái của cái tôi trữ tình Nguyễn Khuyến trong thơ.
Có lúc, Nguyễn Khuyến sử dụng những
đại từ nhân xưng có tính chất gần gũi để thể hiện tình cảm chân thành, quý mến
với bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm, với những người dân lao động mà ông bắt gặp,
tiếp xúc. Chẳng hạn:
Kể
tuổi tôi còn hơn tuổi bác
Tôi lại đâu trước bác mấy ngày
Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời
(Khóc Dương Khuê)
Chú
Đáo bên người lên với tớ
Ông Từ ngõ chợ lại cùng ta
(Lên lão)
Đầu
trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta
(Bạn đến chơi nhà)
Có lúc, nhà thơ dùng nhiều đại từ
nhân xưng thích đáng với giọng điệu trịch thượng, mỉa mai hoặc coi thường để
châm biếm, giễu nhại nhiều loại đối tượng xấu trong xã hội đương thời mà ông
chứng kiến, coi thường. Chẳng hạn:
Tôi
nghe kẻ cướp nó lèn ông
Nó lại lôi ông đến giữa đồng
(Hỏi tham quan tuần mấp cướp)
Anh
mừng cho chú đỗ ông nghè
Chẳng đỗ thì trời cũng chẳng nghe
(Mừng ông nghè mới đỗ)
Nhiều khi, hằn học với thế thái đảo
điên, nhân tình đen bạc, nhà thơ tự xưng “tao”, “ông” với một giọng điệu bất
bình, bức xúc:
- Ăn mày chớ có ăn tao nhé
- Quyết chí phen này trang trải sạch
Cho đời rõ mặt cái thằng tao
(Than nợ)
Đặc biệt, thi nhân thường dùng những
đại từ như “mình”, “tớ”, “ta”, “ông” để tự ý thức, phản tỉnh hoặc tự trào bản
thân. Ở những trường hợp này, đại từ nhân xưng thường được sử dụng với tần số
xuất hiện cao hơn, cùng với đó là giọng thơ trầm lắng hơn, nhiều khi chua chát.
Ví như:
- Nghĩa ta, ta lại chỉ thương ta…
- Ông chẳng hay ông tuổi đã già
- Nghĩ ra ông
sợ cái ông này
- Nghĩ mình vườn cũ vừa lui bước
- Năm nay lão
đã bảy mươi tư
Rằng lão rằng quan tớ cũng ừ
(Đại lão)
Qua những ngữ liệu trên, có thể
thấy, đại tự nhân xưng ngôi một là lớp tự rất độc đáo trong ngôn ngữ thơ Nôm
Nguyễn Khuyến. Lớp từ này xuất hiện với số lượng lớn và nhiều dạng thức, được
nhà thơ sử dụng một cách thích đáng, chủ động; góp phần lớn vào việc thể hiện
sinh động những phương diện, cung bậc của cái tôi trữ tình của ông Tam nguyên
đất Yên Đổ trong thơ.
4.
Trong thơ Nôm, trừ một lần gián tiếp nói về mình thông qua cương vị là quan
triều Nguyễn (Đề vào mấy chữ trong bia/
Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu - Di
chúc), Nguyễn Khuyến không tự xưng danh (xưng tên riêng) như các nhà thơ
trước ông (Bất tri tam bách dư niên hậu/
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như; Quả cau
nho nhỏ miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương mới quệt rồi), cùng thời với ông
(Vị Xuyên có Tú Xương/ Dở dở lại ương
ương) và cả sau thời ông (Trời sinh
ra bác Tản Đà; Chàng Huy Cận ngày xưa
hay sầu lắm). Thế nhưng hiếm có nhà thơ nào lại sử dụng hệ thống đại tự
nhân xưng với số lượng lớn và đa dạng như ông. Đặc biệt hơn, lớp đại từ này lại
được nhà thơ sử dụng chủ động, linh hoạt và phát huy được giá trị của chúng
trong việc thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ. Đây là một trong những dấu ấn độc
đáo của nhà thơ kép tài hoa Nguyễn Khuyến trong thơ Nôm.
Chú
thích:
1.
Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng
Việt (Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
H., tr.338.
2.
Biện Minh Điền (2008), Phong cách nghệ
thuật Nguyễn Khuyến, Nxb ĐHQG Hà Nội, H., tr.164.
3.
Biện Minh Điền, Sđd, tr.161.
Thông tin tác
giả
- Họ tên: Phan Đình Phùng
- Học viên lớp Cao học văn học Việt Nam K18, trường
Đại học Quy Nhơn
- SĐT: 0934. 797. 138
0 nhận xét:
Đăng nhận xét